Trí thức khoa học công nghệ với Cách mạng Tháng Tám
Sáu mươi chín năm đã trôi qua, nhưng tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2 tháng 9 năm 1945 bất diệt vẫn còn vang mãi. Và tham góp vào thành công ấy, có đội ngũ trí thức - những tinh hoa thời đại, những “cây đại thụ” của làng trí thức khoa học công nghệ. Nói như giáo sư Nguyễn Hữu Tăng, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam: Những cống hiến của các nhà trí thức khoa học công nghệ (KHCN) trong thời chiến cũng như thời bình đều đáng để tầng lớp trí thức sau này, nhất là các trí thức trẻ học tập và noi theo…
Những cái tên đã trở thành quen thuộc với giới trí thức nước nhà như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Ngụy Như Kon Tum... Bởi họ không chỉ là những trí thức hàng đầu trong lĩnh vực KHCN, họ còn là những trí thức tiêu biểu khi quyết định chọn con đường đầy gian khổ mà vinh quang, đồng hành cùng nhân dân để giành độc lập dân tộc, xây dựng nước Việt Nam mới.
Người trí thức có bộ óc bách khoa
Thông minh, học giỏi, cậu học sinh trường Bưởi - Tạ Quang Bửu nhận học bổng du học. Năm 1934, với các tấm bằng toán học của trường Đại học Paris, Đại học Bordeaux (Pháp), trở về nước, ông từ chối làm quan, chỉ nhận dạy toán và tiếng Anh tại Trường Thiên Hựu (Huế). Rồi khi cách mạng cần, ông đã tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Hà Nội. Năm 1946, ông đã đảm nhận chức vụ Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khi trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông đã chỉ đạo và biên soạn cuốn sách “Bắn máy bay bằng súng trường tập trung”. Cuốn sách sau đó được phổ biến rộng rãi khắp nơi, trở thành tài liệu quý giá cung cấp những kiến thức nền tảng cho bộ đội cách bắn máy bay bằng súng trường, đã khiến máy bay Pháp phải dè chừng trên vùng trời Việt Nam.
Là một nhà khoa học thông thái, nhà tri thức uyên bác, Giáo sư Tạ Quang Bửu có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về nguyên tử hạt nhân, vũ trụ tuyến, sóng, vật lý cương yếu, hạt cơ bản. Tên tuổi nhà trí thức khoa học Tạ Quang Bửu đã mang lại tầm ảnh hưởng đặc biệt. Chính tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 1948 ở Việt Bắc, ông Nguyễn Xiển đã khẳng định: “Trong thời kỳ kháng chiến này, ông Bửu là nhà khoa học viết được nhiều nhất, do vậy có thể ảnh hưởng nhiều nhất đến các thế hệ đương thời.” Và dự báo: “Với những người mở đường như ông Bửu, ông Thiêm, chắc chắn nước ta sẽ có hàng trăm nhà toán học có tài không kém nước khác.”
Năm 2014, Bộ KH&CN đã quyết định lấy tên ông đặt cho Giải thưởng dành cho các nhà khoa học Việt Nam có đóng góp tích cực cho nghiên cứu cơ bản của Việt Nam - Giải thưởng Tạ Quang Bửu.
Ông vua vũ khí Việt Nam
“Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự phát triển của đội ngũ trí thức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1930 đến nay, trí thức Việt Nam luôn là một lực lượng của cách mạng, luôn xung kích đi đầu trên mặt trận khoa học công nghệ và văn hoá. Trí thức Việt Nam không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp mà còn làm nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu, tổng kết, khám phá, truyền bá, trao truyền kinh nghiệm cho các thế hệ nối tiếp”. |
Được mệnh danh là ông vua vũ khí Việt Nam - người trí thức cách mạng Việt Nam, GS.VS Trần Đại Nghĩa (tên thật là Phạm Quang Lễ) xuất thân từ gia đình nhà giáo nghèo ở Vĩnh Long, bằng ý chí và nghị lực, ông đã vươn lên tiếp cận những đỉnh cao khoa học của thế giới. Sau 11 năm du học và làm việc tại Pháp và Đức, ông bí mật, bền bỉ nghiên cứu về vũ khí và các lĩnh vực khoa học kỹ thuật cao. Năm 1946, ông đã tình nguyện theo bác Hồ về nước phụng sự Tổ quốc với “hành trang” mang theo là khối “tài sản” quý hơn 30.000 trang tài liệu về vũ khí, hầu hết là tuyệt mật. Bảy ngày sau khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho kỹ sư Phạm Quang Lễ tiến hành nghiên cứu Badoca, loại vũ khí mới để đánh xe tăng, xe bọc thép (lúc ấy, loại vũ khí này chỉ có Mỹ sở hữu). Năm 1947, cuộc thử nghiệm súng Badoca thành công. “Tiếng sét” Badoca của chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam được xem như một “huyền thoại” của cuộc kháng chiến, góp phần vào chiến thắng của quân đội ta, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…
Tên tuổi của ông gắn liền với những chiến công vạng dội của quân đội ta với những vũ khí như súng Badoca, SKZ, bom bay… cải tiến nâng tầm bắn của tên lửa Sam II (do Liên Xô sản xuất) tiêu diệt siêu pháo đài bay B52 của đế quốc Mỹ. Người trí thức cách mạng ấy đã trở thành người đầu tiên đưa đến cho cán bộ khoa học trẻ Việt Nam những kiến thức cơ bản về kỹ thuật vũ khí, chế tạo và tính năng súng đạn… Nhà khoa học anh hùng Trần Đại Nghĩa, con người trọn đời vì đại nghĩa mãi mãi là tấm gương sáng của nền khoa học Việt Nam, của trí thức KHCN Việt Nam.
Nhân sĩ yêu nước
Từ bỏ Paris trở về với đồng bào đang chịu cảnh nô lệ, đi theo tiếng gọi của bác Hồ, lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Ngụy Như Kon Tum là thạc sỹ Vật lý đầu tiên của nước ta.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939), ông trở về nước dạy học tại các trường trung học ở Sài Gòn, rồi Hà Nội. Kết hợp chặt chẽ giảng dạy trong nhà trường với nghiên cứu khoa học và phổ biến kiến thức ngoài nhà trường.
Giáo sư đã cùng một số trí thức tiến bộ viết bài cho tạp chí khoa học nổi tiếng thời đó. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ năm 1946, ông theo chính phủ kháng chiến lên căn cứ địa Việt Bắc, đảm nhiệm nhiều trọng trách trong ngành giáo dục. Nhiều trí thức Việt Nam lúc bấy giờ rất xúc động khi nhìn thấy hình ảnh vợ chồng giáo sư Ngụy Như Kon Tum - Nguyễn Thị Đỗ đi bộ trèo đèo lội suối với bàn chân rớm máu. Bà Đỗ từng là hoa hậu của Hà Nội, là con gái đầu của giáo sư Nguyễn Đình Phong dạy văn học ở Trường Bưởi. Thời ấy, có nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhiều cán bộ khoa học thường hay gọi giáo sư Ngụy Như Kon Tum bằng một cái tên trân trọng trìu mến “Nhân sĩ yêu nuớc”. Đây là một cụm từ rất trang trọng để giới thiệu về những trí thức ngoài Đảng, có uy tín trong giới trí thức, cả trong và ngoài nước.
Câu chuyện gia đình Giáo sư Ngụy Như Kon Tum và một đội ngũ trí thức Việt Nam có uy tín, tên tuổi không quản ngại gian khổ hy sinh, lên núi rừng Việt Bắc, vì đại nghĩa của dân tộc mà xả thân, hoà mình vào cuộc kháng chiến của toàn dân chống Pháp mãi mãi là một bài học lịch sử có giá trị.








