Trí thức của ta “bay còn thấp”
Đội ngũ trí thức Việt Nam đã thực sự tăng về số lượng, có nhiều đóng góp đáng kể cho đất nước, song cho đến nay về chất lượng vẫn chưa đạt yêu cầu. Họ cũng giống như các hành khách trên con tàu đang hướng về đích. Vẫn con tàu cũ sơn quét và tu tạo lại, vẫn người lái trình độ không hơn cũ, vẫn đường ray cũ kĩ ấy thì không thể làm gì hơn ngoài việc “lắc lư” theo con tàu.
Sự phân định và xác định tiêu chí cho trí thức luôn là một vấn đề không đơn giản, vì vậy khó có thể nói ở Việt Nam hiện nay có bao nhiêu trí thức. Theo cách hiểu của tôi thì trí thức không chỉ là người lao động trí óc, có học vấn cao, hiểu biết rộng về chuyên môn mà còn ở đầu óc sáng tạo, tư duy độc lập.
Trí thức xuất phát từ các giai cấp khác nhau để hình thành một “tầng lớp trí thức”. Sự sáng tạo, phát minh và đạo đức của trí thức chân chính dù trong lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn hoặc Khoa học và Công nghệ, phải phản ánh hiện thực một cách khách quan, nói thẳng, tôn trọng sự thật, trước sau như một, không thủ đoạn và có lương tâm... Còn những người thiếu một trong những phẩm chất ấy, trước tiên họ không phải là trí thức thực thụ mà đội lốt trí thức hoặc có thể xếp họ vào trí thức “giả”. Đây là điều các nhà lãnh đạo cần lưu ý trong quá trình sử dụng và đối xử với trí thức.
Trong những năm qua, đội ngũ trí thức được bổ sung nhiều, tuy nhiên nhiều người chỉ biết nghe theo nhiều hơn là biết sáng tạo và phát minh ra các giá trị mới để góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Trí thức Việt Nam còn quá nghèo, họ sợ mất “cái niêu cơm” của họ bởi vì ai cũng cần ăn mặc và cần sống. Rất nhiều trí thức khi nói, khi viết đều phải bám lấy ý của lãnh đạo đã phát biểu hoặc những văn kiện đã có sẵn (đặc biệt đối với trí thức trong lĩnh vực khoa học xã hội) thì sao có thể sáng tạo để đóng góp ý kiến hay giúp Đảng và Nhà nước đưa ra được quyết sách mới, đúng đắn, có giá trị.
Cơ chế và chế tài trong quản lý và sử dụng trí thức khoa học còn cũ kỹ.Việc phát huy động lực với trí thức trong thời gian đổi mới và hội nhập hiện nay là cấp bách nhưng lại được điều hành và quản lý bởi quan điểm cũ, cơ chế cũ. Nhà nước nói khoa học là then chốt nhưng thực ra chưa có tham vọng về khoa học và chưa có chiến lược sử dụng đội ngũ trí thức: Điều kiện nghiên cứu chưa được đầu tư xứng đáng, lương bổng thấp, chế độ khuyến khích tài năng không có hiệu quả.
Trong chế tài còn quá nhiều qui định bất hợp lý đối với cơ quan nghiên cứu, vì vậy để hoạt động được buộc các nhà khoa học phải nói dối.
Nhiều nhà khoa học có được kiến thức khoa học nhất định, để vươn lên họ lại phải cố gắng có được chức vụ trong quản lý, lúc đó những nhà khoa học có chức vụ rất dễ trở nên độc đoán, công thần, cho mình là cao nhất, coi thường công lao của quần chúng, của những người đi trước, coi thường những nguyên tắc bình đẳng hoặc chia sẻ quyền lợi và niềm vinh dự trong khoa học. Sự phấn đấu vươn lên của trí thức về chức quyền gây ra những xu hướng lệch lạc trong phát triển tri thức.
Nhiều cuộc sinh hoạt mang tính hình thức đối với trí thức là không cần thiết. Trong tổ chức nhiều khi tiêu chuẩn không được ghi vào văn bản. Không có văn bản nào nói rằng muốn bổ nhiệm một thủ trưởng từ cỡ vụ viện trở lên ngoài tiêu chuẩn khác thì phải là Đảng viên. Nhưng trong quá trình bổ nhiệm thì tiêu chuẩn ấy vẫn được đặt ra trước tiên và rất quan trọng. Trong thực tế, những thủ trưởng được bỏ qua tiêu chuẩn này quá hiếm trong xã hội ta, chỉ một vài trường hợp. Dường như Đảng và Nhà nước chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu tính chất và tâm lý trong đó có động lực cá nhân của trí thức Việt Nam thời bình, đặc biệt trong thời kinh tế thị trường và hội nhập. Tôi nghĩ nắm vững điều này thì sẽ tốt hơn khi sử dụng trí thức trong việc đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Cuộc sống thì bao nhiêu cái quan trọng, bao nhiêu cái cần, nhưng không phải tất cả mọi cái cần thì trí thức hoặc nhà khoa học đều phải có.
Chảy máu chất xám là một hiện thực.Trong thời đại hội nhập, chảy máu chất xám xảy ra ở nước ta là điều không thể tránh khỏi. Chảy máu chất xám thường xảy ra khi có sự chênh lệch giữa các nước và giữa các cơ quan chủ yếu về chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc và môi trường (tinh thần) làm việc và sinh hoạt. Nó ảnh hưởng và làm xáo trộn các quá trình và kế hoạch phát triển. Đảng đã chủ trương thu phục nhân tài từ nước ngoài về Việt Nam để làm việc nhưng ngược lại chưa có chính sách có hiệu quả để động viên trí thức trong nước phát huy được vai trò trong cơ quan nhà nước. Nhiều trí thức Việt Nam được cử đi đào tạo ở nước ngoài lại xin ở lại để làm việc tại đó, và chiều hướng này ngày một tăng.
Chảy máu chất xám còn xảy ra ngay trong nước, từ cơ quan Nhà nước sang các công ty, tập đoàn tư nhân hoặc nước ngoài ở Việt Nam . Điều đó đã xảy ra và là một điều đáng lo ngại.
Trong 3 nguyên nhân chủ yếu mà tôi nêu ra thì có một nguyên nhân dễ làm cho trí thức bỏ đi là môi trường làm việc. Tinh thần của họ phải được tôn trọng. Trí thức là như vậy. Trong chế độ lương bổng và điều kiện làm việc hạn chế, nhiều trí thức Việt Nam vẫn có thể thông cảm được vì họ đều yêu tổ quốc, nhưng khi “không khí”, làm việc “bị ô nhiễm”, tinh thần họ không được tôn trọng thì họ cũng dễ bỏ đi nơi khác vừa có lương bổng hơn, vừa có điều kiện làm việc tốt hơn và về tinh thần họ được tôn trọng hơn. Ở Việt Nam , chính cái nặng nề về tổ chức, về quan hệ, tính phân biệt chính trị trong đội ngũ trí thức đã làm cho họ hoặc mệt mỏi hoặc thiếu hy vọng nên đã từ bỏ cơ quan Nhà nước. Trí thức bỏ cơ quan nhà nước là điều đáng báo động với Đảng và Nhà nước. Tôi đã thấy có phòng nghiên cứu với nhiều cán bộ có học vị và chức danh cao, ấy thế mà nhiều người được đào tạo về chỉ làm việc một thời gian họ đã chán và xin đi khỏi đơn vị để tìm đến đơn vị khác. Điều đó chỉ có thể giải thích nguyên nhân là tinh thần và không khí làm việc chưa tốt.
Chính sách tốt thì trí thức say sưa làm việc và sáng tạo, chính sách kém thì trí thức không phấn khởi làm việc thậm chí mất đoàn kết và từ bỏ nơi làm việc. Tinh thần và thái độ của thủ trưởng là rất quan trọng. Hiện nay có bao nhiêu trí thức làm thủ trưởng do Đảng đào tạo ra không đáp ứng được yêu cầu này?
Chúng ta cần thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách đánh giá và cách chia sẻ với trí thức; phải thu hút nhân tài, bình đẳng và tăng giá trị và vinh dự xã hội đối với trí thức trong điều kiện kinh tế còn thấp kém hiện nay.
Đảng cần có chiến lược mới trong việc sử dụng trí thức. Nếu Đảng có tham vọng lớn đối với khoa học và công nghệ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì phải có chiến lược sử dụng trí thức có hiệu quả. Cha ông ta đã khẳng định “Hiền tài là nguyên khí quốc qua”. Nếu hiểu theo cách tư duy của cha ông thì chúng ta đã làm gì để phát huy cái “nguyên khí quốc gia” ấy. Theo tôi, Đảng cần có chính sách mới và cơ chế mới đối với 2 lĩnh vực cơ bản nhất là khoa học và giáo dục – đào tạo. Nếu thiếu trí thức, thiếu các nhà khoa học chân chính có tầm cao thì sao đẩy mạnh được công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ những phân tích kể trên, tôi xin đề xuất một số vấn đề trong chiến lược xây dựng đội ngũ trí thức của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
1. Nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt đào tạo tiến sĩ, tăng cường hơn nữa việc cử người đi đào tạo tại nước ngoài.
2. Bình đẳng hơn nữa trong đội ngũ trí thức về chính trị, quyền lợi nghiên cứu khoa học, trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo (không phân biệt đảng viên hay quần chúng), chia sẻ công bằng trong quyền lợi khoa học và vinh dự xã hội.
3. Có chế độ lương bổng và ưu đãi để đảm bảo mức sống của trí thức và các nhà khoa học tương đương với các chuyên gia của các tập đoàn doanh nghiệp trong nước.
4. Giảm bớt các sinh hoạt nặng về hình thức, phong trào trong các cơ quan nghiên cứu và đào tạo; tập trung tăng cường các sinh hoạt khoa học, dần dần tạo nên tính truyền thống trong khoa học.
5. Thu hút trí thức Việt kiều, trí thức Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc, tranh thủ trí tuệ của các trí thức và các nhà khoa học đã đến tuổi về hưu nhưng còn sức khoẻ và lòng nhiệt tình.
6. Tạo môi trường làm việc dân chủ, nhân văn trong cơ quan khoa học và đào tạo.
7. Đổi mới cơ chế và chế tài đối với các cơ quan nghiên cứu và đào tạo.
8. Tăng cường ngân sách và đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Hà Nội, 15/3/2008








