Trầm cảm - Nhận thức rõ để nâng chất lượng điều trị
Ở khía cạnh khác, thuốc chữa trầm cảm có nhiều loại, có thứ khoa nội “mượn” để kèm theo thuốc chữa một hội chứng nội khoa thực thể, làm cho người chữa trị nghĩ thứ này đổi qua thứ khác được, cũng là thuốc trị trầm cảm, kết quả là thất bại!
Để rõ ràng, những ý sau đây được trình bày trong ba nhóm: nhóm đầu thuần túy về tâm thần, nhóm kế thuộc về nội khoa mà trầm cảm chỉ là “ăn theo” và “quấy rối”; cuối cùng là thuốc của khoa tâm thần mà khoa nội “mượn” để dùng trong điều trị.
Định nghĩa
Trầm cảm: Trầm:chìm xuống nước; sâu kín. Cảm:cảm xúc.
Cảm xúc:phản ứng tâm thần xảy đến một cách tức khắc và đột ngột áp đảo ngay vào một người nào đó ngoài tất cả suy luận. Trong quãng đời, ta có nhiều cảm xúc. Một số có vẻ như không hợp với lý thông thường: hoặc, có thể theo chiều hướng dễ chịu: nhìn đời màu hồng, tri giác, cảm giác sau một hiện tượng hạnh phúc vui vẻ; hoặc, có thể theo chiều hướng khó chịu như buồn bã sau một tai họa, nguồn gốc đau khổ có khả năng tạo tình trạng co rút, không giao thiệp; từ bệnh học gọi trầm nhược.Tất cả cảm xúc không phải chỉ do hiện tượng từ bên ngoài. Nó luôn luôn có mặt trong chúng ta và có thể từ bên trong tạo những tình trạng dễ chịu hoặc khó chịu… nói gọn: tạo cho mỗi con người các trạng thái tâm hồn, một sắc điệu dễ chịu hay khó chịu, dao động giữa hai thái cực hạnh phúc và đau khổ. Đời sống tình cảm của ta không thể tách rời đời sống bản năng, đời sống tri thức và đời sống hanh vi tức thái độ, đặc tính.
Tất cả cảm xúc nguyên tố nói trên tạo nên một không khí tâm thần đặc biệt gọi tâm trạng.Y văn Pháp gọi bằng một từ có nguồn gốc cổ Hy Lạp có nghĩa “linh hồn”. Mỗi người chúng ta có một nền tâm trạng riêng biệt. Những tri giác, cách người này tiếp nhận những sự việc xảy ra bên ngoài; những thông tin gì mà người này thu thập chính từ trong thể xác và trong môi trường đều đượm màu của nền cảm xúc đó.
Trầm cảmlà tình trạng cảm xúc bị rối loạn trong đó màu của nền cảm xúc trên ghi những cảm giác, tri giác, hiện tượng, tin tức… đều đượm màu xám xịt bởi bi quan, khó chịu, bực mình, đau khổ…
Xúc độnglà một tình trạng cảm xúc mạnh, cấp tính, thể hiện bằng những phản ứng thần kinh thực vật (kích thích hoặc ức chế): mặt xanh tím hoặc đỏ rần, miệng khô, vã mồ hôi, run tay chân…
Tình cảmlà những xúc động bóng bẩy hơn, nhẹ nhàng hơn, tế nhị hơn. Tình cảm không có những hiện tượng thực vật. Tình cảm có thể tạm thời hoặc lâu dài.
Buồn chán, chán ngánlà một cảm giác trống không và không tha thiết. Buồn chán thường thường dính liền với một hoàn cảnh rõ rệt như sống trong trại tập trung, trại dưỡng lão; có thể do một hoạt động bị bắt buộc: bắt buộc học hành, công việc làm buồn tẻ không thay đổi. Có một thời kỳ sự buồn chán này được coi như một thời trang, tức thời kỳ lãng mạn và thường là đặc điểm của tuổi thanh niên. Buồn chán thường kèm theo cảm giác uể oải, mệt mỏi, có thể ghi nhận hành động của bệnh nhân ngày hôm qua khác biệt với ngày hôm nay.
Triệu chứng của trầm cảm
Không ghi lại sau đây toàn bộ triệu chứng của trầm cảm dạy trong bệnh học tâm thần; nhưng chỉ lọc ra và lưu ý những điểm có dính dáng trong nội khoa trình bày ở bài kế tiếp.
1/ Khí sắc kiểu trầm nhược:Đứng đầu là nét mặt thường buồn, đau khổ (dễ nhận ở cặp mắt khi khám nội khoa). Thông thường bệnh nhân tự cảm thấy trầm nhược, than buồn, mệt mỏi, nhất là ở buổi sáng, giảm nhiều về xế chiều.
Người bệnh gợi lại một sự đau đớn về tinh thần với cảm giác tự buộc tội hay cảm giác có tội quá mức. Trong nội khoa thể hiện bằng suy luận: “tại… như thế này… tại như thế kia… mới xảy ra…”.
2/ Ức chế hay chậm chạp tâm thần vận động:Biểu hiện điệu bộ nghèo nàn và cứng, các cử chỉ hiếm và chậm, cách ăn mặc, và ngay cả vệ sinh thân thể cũng lơ là. Khi nói chuyện, giọng nói đơn điệu, lời nói chậm và ngắt quãng. Mệt mỏi nhiều nhất từ sáng sớm, cải thiện về xế chiều. Chậm chạp tâm thần biểu hiện bởi những rối loạn về nhận thức: người bệnh biểu hiện rối loạn chủ ý, kém tập trung tinh thần, rối loạn trí nhớ, khó khăn khi cần phải quyết định công việc.
3/ Lo âu:luôn luôn có, biểu hiện ở nét mặt và đôi mắt. Người bệnh dễ kích thích, có thể khu trú vào các ám sợ, thường xuyên là ám sợ bệnh; có thể có các triệu chứng cơ thể của lo hãi: đau tức ngực, cảm giác nghẹt thở, chóng mặt, buồn nôn… thường đi kèm với những lo sợ ưu bệnh… đánh lừa chẩn doán hay được điều trị lung tung.
4/ Triệu chứng cơ thể:chủ yếu là rối loạn tiêu hóa, chán ăn, táo bón; hoặc, có khi ngược lại: ăn nhiều, lai rai suốt ngày. Rối loạn giấc ngủ, thường là mất ngủ hoặc đầu hôm, hoặc gần sáng, hoặc ngủ nhiều, ngủ gà trong công việc. Giảm ham muốn tình dục. Đau lung tung trong cơ thể.
5/ Ý tưởng tự tử:Người khám phải thật cảnh giác để có biện pháp ngăn ngừa: thuyết phục điều trị nơi chuyên môn; người chữa trị phải thật lưu ý người chăm sóc để giữ gìn, tránh để ở trên lầu, tránh dùng thuốc an thần mạnh để chữa mất ngủ (vì giải tỏa ức chế đưa đến tự tử: xem ở bài cuối). Lưu ý lời nói của người bệnh: “chết đi cho rồi”, “chết còn hơn”…
Trên đây là năm triệu chứng của bệnh trầm cảm. Trong thực tiễn lâm sàng, ta gặp nhiều mức độ, nhiều thang bậc. Thuốc trị trầm cảm thường dùng đều có hiệu nghiệm tốt với điều kiện áp dụng đúng cách, đúng liều, đủ thời gian qui địnhcủa khoa điều trị.








