“Tiết kiệm”, “lãng phí” giải thích thế nào cho phù hợp với thuật ngữ pháp lý
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được đề cập tới việc giải thích từ ngữ trong điều 4 dự án Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
1.Tiết kiệm là việc giảm bớt hao phí trong việc sử dụng tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động, tài nguyên thiên nhiên, nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định; đối với việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên ở những lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì tiết kiệm là việc sử dụng ở mức thấp hơn định mức tiêu chuẩn chế độ, nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định hoặc sử dụng đúng định mức tiêu chuẩn, chế độ nhưng đạt cao hơn mục tiêu đã định.
2.Lãng phí là việc quản lý, sử dụng tiền, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên thiên nhiên không hiệu quả; đối với các lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định.
Trên cơ sở ngữ nghĩa theo truyền thống, lý luận thực tiễn tôi cho rằng cần bàn luận để hiểu từ ngữ “Tiết Kiệm, Lãng Phí” một cách khoa học và phù hợp với thuật ngữ mang tính pháp lý trong Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì: - Tiết kiệmlà giảm bớt hao phí không cần thiết, tránh lãng phí trong sản xuất sinh hoạt;
Lãng phí là làm tiêu hao vật chất vào những việc không cần thiết; - Xa hoalà sang trọng một cách hoang phí, cốt để phô trương.
Ý chí tiết kiệm và chống lãng phí chưa được thể hiện rõ
Trở lại điều 4 giải thích từ ngữ vấn đề đặt ra: - Hao phí nào cần giảm bớt? Giảm bớt bằng cách nào? - Cụm từ “mục tiêu đã định” chung chung không xác định được ngữ nghĩa rõ ràng, có thể sử dụng cụm từ khác để chỉ rõ phạm vi điều chỉnh của Luật được không? – Xa hoa lãng phí là từ ngữ mâu thuẫn với từ ngữ tiết kiệm nên sử dụng hai từ ngữ này để làm rõ nghĩa từ tiết kiệm không?
Vấn đề thứ nhất: Trong sản xuất sinh hoạt việc quản lý sử dụng tiền, tài sản khác, lao động... tài nguyên thiên nhiên... đều có những hao phí nhất định và chúng ta chỉ thực hành tiết kiệm bằng cách giảm bớt những hao phí không cần thiết. Giảm bớt hao phí không cần thiết bằng cách nào? Khoản 2 điều 6 quy định việc ban hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm căn cứ tổ chức thực hành tiết kiệm nêu định mức tiêu chuẩn chế độ phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước, được công khai đến các cơ quan tổ chức và đối tượng thực hiện. Như vậy ta có thể hiểu việc định mức tiêu chuẩn, chế độ là việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật của tất cả các khoa học chuyên ngành phục vụ sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, trên cơ sở khoa học, lý luận thực tiễn để xây dựng và được cơ quan có thẩm quyền ban hành. Vậy sự giảm bớt hao phí của định mức tiêu chuẩn, chế độ dựa trên cơ sở nào?
Vấn đề thứ 2: Cụm từ “mục tiêu đã định” bao gồm tất cả các mục tiêu chính đáng, không chính đáng, tốt, xấu... không phân biệt được chủ thể thực hiện mục tiêu đã định cần thiết điều chỉnh trong luật hơn nữa ở tầm vĩ mô mục tiêu đã định cụ thể như (chương trình, dự án, công trình xây dựng...) hoàn thành theo tiêu chuẩn định mức chế độ. Nhưng mục tiêu cuối cùng phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng không đạt được (chợ không có người họp, khu tái định cư không có người ở, đường xá không có người tham gia giao thông, bệnh viện bỏ trống, dự án quốc kế dân sinh bị phá sản...) dự án, công trình không có hiệu quả. Cụm từ mục tiêu đã định không bao quát được vấn đề nêu trên.
Vấn đề thứ ba: Trong sinh hoạt của nhân dân, nhất là trong ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp, lễ hội... tiêu dùng của một bộ phận nhân dân, thậm chí trong các tổ chức của cơ quan nhà nước việc xa hoa lãng phí còn rất lớn. Đặc biệt là vấn đề được công luận quan tâm là lãng phí và thất thoát, tham ô, tham nhũng, rút ruột công trình, công trình không hiệu quả... trong việc lập dự án đầu tư, trong xây dựng cơ bản là rất lớn.
Nhưng với các giải thích từ ngữ lãng phí như điều 4 không nói hết ý của sự xa hoa, lãng phí, từ đó không thể hiện được ý chí chống lãng phí.
Giải thích như thế nào cho đúng?
Từ cách nhìn nhận vấn đề như vậy tôi xin được nhận thức từ ngữ tiết kiệm, lãng phí như sau:
- Tiết kiệm: là giảm bớt hao phí không cần thiết, không xa hoa lãng phí trong việc sử dụng tiền, tài sản khác, lao động - thời gian lao động, tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất sinh hoạt. Đối với việc quản lý sử dụng ngân sách nhà nước, tiền, tài sản khác, lao động, thời gian lao động, trong khu vực nhà nước và tài nguyên thiên nhiên ở những lĩnh vực đã có định mức tiêu chuẩn chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, thì việc tiết kiệm là việc sử dụng tài sản, vốn phù hợp với quy định của pháp luật, áp dụng những thành tựu khoa học và những sáng kiến cải tiến kỹ thuật để giảm hao phí không cần thiết và tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng.
- Lãng phí: là việc làm tiêu hao tài sản, vốn vào những việc không cần thiết gây nên sự tốn kém không hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng ngân sách của nhà nước, tài sản, lao động, thời gian lao động đối với các lĩnh vực đã có định mức tiêu chuẩn chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Lãng phí là sự vượt tiêu chuẩn định mức chế độ trong quản lý nhà nước hoặc thực hiện việc lập dự án, xây dựng dự án... không mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng.
Ở một góc nhìn trong việc góp ý dự án luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí về ngữ nghĩa, làm cơ sở để phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh phù hợp với nội dung luật. Rất mong sự tham gia góp ý bàn luật của các luật gia.
Nguồn: Pháp lý, số 10, 2005, tr 28 - 29








