Tiếp cận định lượng kinh tế tri thức: Thử tính toán lực lượng lao động tri thức của Việt Nam
Làm thế nào mà đo được sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức ở một nước? Câu hỏi này đang được các nhà nghiên cứu tìm cách trả lời sao cho thích hợp nhất.
Trước hết, chính là từ việc đo một số loại hoạt động trong nền kinh tế mà F. Machlup vào năm 1962 đã phát hiện ra sự tồn tại của "công nghiệp tri thức" ở nước Mỹ; các hoạt động đó là: nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo, thông tin đại chúng (xuất bản, báo chí, truyền thanh, truyền hình, v.v…). Năm 1958, số lao động thực hiện các hoạt động này chiếm 31% tổng lao động toàn nước Mỹ; và số sản phẩm tạo ra từ đây chiếm 29% tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Song điều quan trọng hơn là hai chỉ tiêu này (lao động, sản phẩm) đã gia tăng rất nhanh, gấp đôi sự gia tăng GNP, chứng tỏ các hoạt động có liên quan đến tri thức đang trở thành chủ yếu trong nền kinh tế; nói cách khác, kinh tế đang trở thành "kinh tế tri thức" mà Machlup mới xét phần công nghiệp của nó.
Một nghiên cứu khác rất nổi tiếng là lý thuyết "khu vực thông tin" do M. Porat đưa ra năm 1974. Nhà nghiên cứu này đã rút ra các lao động được xem là có liên quan đến "xử lý thông tin" từ ba khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ (theo các phân chia cổ truyền nền kinh tế) để gộp lại trong một khu vực thứ tư gọi là "khu vực thông tin". Làm như vậy, Porat đã phát hiện ra một điều quan trọng: khu vực thông tin của nước Mỹ vào quãng năm 1970 chiếm một nửa nền kinh tế, có nghĩa nước Mỹ vào lúc này đã có một nền kinh tế mới về chất - kinh tế thông tin (quy mô lớn hơn "kinh tế tri thức" vì có những hoạ t động lao động chưa phải là lao động tri thức nhưng có thể xem là xử lý thông tin).
Khái niệm "kinh tế dựa trên tri thức" hay "kinh tế tri thức" được chính thức nêu lên từ một báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 1996. OECD đã đưa ra một bộ chỉ tiêu để đánh giá mức độ phát triển của kinh tế tri thức của một nước, thí dụ như các ngành dựa trên tri thức, đầu tư cho sản xuất tri thức, chất lượng nguồn lực con người, v.v… Bộ chỉ tiêu này hiện còn điểm yếu là chưa được sắp xếp có hệ thống và gắn bó với nhau một cách lôgic.
![]() |
Bảng 1 |
![]() |
Bảng 2 |
Trong khuôn khổ Đề tài KX08-02 (GS Vũ Đình Cự là chủ nhiệm), chúng tôi đã thử tính toán tỉ lệ lao động tri thức của nước ta hiện nay. Do phân loại nghề nghiệp của ta (theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) không giống như phân loại của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) mà APEC đã sử dụng (Bảng 3), chúng tôi đã tiến hành so sánh hai phân loại nghề nghiệp để tìm ra phần tương ứng giữa chúng và tìm cách giải quyết những trường hợp sai khác để đi đến những kết quả của ta có thể so sánh với các kết quả theo cách của APEC.
Chúng tôi đã tìm thấy vào năm 2002 lực lượng lao động tri thức của ta chiếm khoảng 5% tổng lao động của cả nước, tức là hiện có khoảng 2 triệu người (thời gian lao động toàn phần) đang làm những công việc của kinh tế tri thức. Con số này nhỏ hơn so với một số nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á, nhưng điều này là "tự nhiên" vì trình độ phát triển kinh tế của ta (tính bằng GNP hay GDP) hiện còn kém họ. Điều đáng ngại là sự gia tăng của lực lượng lao động tri thức của ta hiện còn khá chậm(xem hình ở dưới). Theo tính toán của chúng tôi, từ 1996 đến 2002, lực lượng này đã tăng từ 3,4% lên 5%, nghĩa là chỉ có khoảng 1,6% trong 6 năm! Ngoài ra, xét phân bố lao động tri thức theo các tỉnh và thành phố, ta sẽ thấy lực lượng này tăng nhanh ở một số thành phố lớn, do đó, lẽ tự nhiên, phải giảm đi ở một số địa phương, vì sự gia tăng chung của cả nước không đáp ứng được sự gia tăng nhanh ở những trung tâm kinh tế lớn.
Tình hình trên cho thấy có hai điều mà theo chúng tôi, các cơ quan đào tạo và quản lý lao động ở nước ta cần chú ý:
- Tăng tốc độ đào tạo lao động có kỹ thuật (từ công nhân có tay nghề trở lên) và mở rộng hơn nữa các hoạt động khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, văn hóa.
- Các địa phương có chính sách để giữ được những lao động có kỹ thuật và lao động tri thức nói chung và cũng có biện pháp để tăng nhanh lực lượng lao động này từ chính địa phương mình.
Các chữ viết tắt: ICT: (các) công nghệ thông tin và truyền thông; FDI: đầu tư trực tiếp nước ngoài; GERD: tổng đầu tư cho R&D; p.c.: mỗi đầu người; p.a.: hàng năm; HDI: chỉ số phát triển con người; BERD: đầu tư của doanh nghiệp cho R&D.
Nhóm lớn 0/1: Cán bộ nhân viên các nghề khoa học, kỹ thuật, văn hóa và liên quan *) 0-1 Ch uyên gia các khoa học vật lý - hóa học và cán bộ kỹ thuật (CBKT) liên quan 0-2/3 Kiến trúc sư, kỹ sư và CBKT liên quan 0-4 Người lái, cán bộ trên boong và cán bộ cơ khí (đường biển và đường không) 0-5 Nhà sinh học, nhà nông học và CBKT liên quan 0-6/7 Thầy thuốc, nha sĩ, nhà thú y và lao động liên quan 0-8 N hà thống kê, nhà toán học, nhà phân tích hệ thống vàCBKT liên quan 0-9 Nhà kinh tế học 1-1 Cán bộ kế toán 1-2 Nhà luật học 1-3 Cán bộ giảng dạy 1-4 Thành viên giới tăng lữ / giáo sĩ và người liên quan 1-5 Tác gia, nhà báo và những người viết liên quan 1-6 Nhà điêu khắc, họa sĩ, nhiếp ảnh gia và nghệ sĩ sáng tạo liên quan 1-7 Nhạc sĩ, diễn viên, vũ công và nghệ sĩ liên quan 1-8 Nhà điền kinh, nhà thể thao và lao động liên quan 1-9 Cán bộ nhân viên các nghề khoa học, kỹ thuật và người liên quan không xếp ở chỗ khác Nhóm lớn 2: Giám đốc và cán bộ hành chính cao cấp 2-0 Thành viên đội ngũ lập pháp và cán bộ cấp cao của hành chính công 2-1 Giám đốc và cán bộ lãnh đạo |
-----
*)Tiếng Anh: Professional, technical and related workers; tiếng Pháp: Personnel des professions scientifiques, techniques, libérales et assimilées.
Nguồn: Vật lý ngày nay, số 2/2006, tr 27-29









