Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 17/07/2007 00:04 (GMT+7)

Tiếng khóc của phán mọc sừng trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

Đọc đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, nếu chú ý kỹ, chúng ta sẽ thấy trong tiếng khóc của phán mọc sừng có sự tăng cấp, ông ta chỉ khóc to “ Hứt! Hứt! Hứt!”, sau đó “ muốn lặng đi, thì may có Xuân đỡ khỏi ngã”, lúc này anh phán mới “ khóc mãi không thôi”. Không cần nói nhiều, ta cũng biết đó là một màn kịch, bởi lẽ “ cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Nhưng, điều quan tâm ở đây là tại sao phán mọc sừng lại khóc? Tại sao tiếng khóc ấy lại “ Hứt! Hứt! Hứt!”? Và đặt trong chỉnh thể tác phẩm thì tiếng khóc ấy có giá trị gì?

Cái chết của cụ cố tổ là kết quả trực tiếp câu nói ngớ ngẩn của Xuân tóc đỏ “ thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng”. Sở dĩ có câu nói đó của Xuân, là vì trước đó phán mọc sừng đã mở lời nhờ Xuân nói cho điều đó, với cái giá năm đồng bạc. Cho đến khi hạ huyệt, năm đồng bạc đó phán mọc sừng vẫn chưa trả cho Xuân tóc đỏ. Trước khi phán mọc sừng cất tiếng khóc, ta thấy trong tác phẩm xuất hiện hai chi tiết: “ Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông Phán mọc sừng” và “lúc cụ cố Hồng mếu máo và ngất đi”. Chi tiết thứ nhất đứng tách riêng một câu, chi tiết thứ hai là thành phần trạng ngữ chỉ thời gian. Hai chi tiết này trở thành cơ sở cho tiếng khóc của phán mọc sừng. Cái chết của cụ tổ, đã bộc lộ bản chất đểu giả của đám con cháu, trước đó tác phẩm đã đề cập. Đến đây, cụ Hồng đã đóng giả rất khéo léo. Chi tiết này có liên quan chặt chẽ đến phán mọc sừng. Cụ thể hiện nỗi đau xót, tiếc thương vô hạn đối với người quá cố, thì phán mọc sừng cũng phải thế. Cụ đã “ mếu máo và ngất đi” thì ông này cũng phải khóc to lên mà bày tỏ nỗi lòng. Đây chính là nét độc đáo của ngòi bút Vũ Trọng Phụng. Ông đã khéo léo sắp đặt tình tiết một cách logic chặt chẽ, khiến cho sợi dây liên tưởng như phán mọc sừng khóc chỉ là muốn cùng cụ Hồng thể hiện nỗi đau một cách thảm thiết nhất. Điều này có nghĩa là chi tiết “ cụ Hồng mếu máo và ngất đi” trở thành nguyên nhân trực tiếp làm cho phán mọc sừng khóc. Nói rõ hơn, Vũ Trọng Phụng đã để cho cụ Hồng làm trò, có tính chất “nêu gương” để từ đó phán mọc sừng làm trò theo. Thế nhưng, xem kỹ lại, ta thấy, phán mọc sừng không phải chỉ vì cụ Hồng khóc mà vì nguyên nhân khác sâu xa hơn, đó chính là món nợ năm đồng của Xuân. Do đó chi tiết Xuân “ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ” hết sức quan trọng. Khi sự việc đã thành công rồi, cụ tổ đã chết, phán mọc sừng rất sung sướng vì được “ thêm vài ba nghìn bạc”. Phán mọc sừng rất biết ơn Xuân, do đó ông này rất nôn nóng muốn “ gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng” và “ theo ông trước khi buôn bán cũng phải giữ chữ tín làm đầu(3). (NMH nhấn mạnh). Lúc này cơ hội trả món nợ đã đến. Trong hoàn cảnh này (cảnh hạ huyệt), tức là người ta thể hiện nỗi đau mất mát lớn nhất, phán mọc sừng không còn sự lựa chọn nào khác, ngoài việc “ khóc lên”, để được Xuân chú ý, được Xuân an ủi, từ đó mảy may cơ hội tiếp cận với Xuân sẽ đến với phán mọc sừng. Do đó, cố nhiên, ông ta phải khóc làm sao cho thật “xúc động”, là sao cho thật sự đau khổ. Cho nên, ban đầu ông ta phải khóc to “ Hứt! Hứt! Hứt!”. Kết quả đã thành công. Xuân đỡ lấy ông, ông đã trả được món nợ một cách kịp thời, giải toả được điều mình áy náy. Rõ ràng ở đây phán mọc sừng đã rất chủ động. Ông đã đánh vào tâm lí của Xuân, đã gồng mình lên để thể hiện, thế nhưng về mặt biểu hiện, ta lại tưởng phán mọc sừng bị động, ta tưởng như phán mọc sừng không hề hay biết việc Xuân đỡ lấy mình. Việc cắt nghĩa nguyên nhân của tiếng khóc như thế, còn lí giải tại sao chi tiết thứ nhất lại làm thành một câu, còn chi tiết thứ hai chỉ là một bộ phận câu.

Xét về mặt cấu âm, tiếng khóc của phán mọc sừng chỉ có thể là “ Hứt! Hứt! Hứt!” mà thôi. Âm thanh này được cấu thành bởi luồng hơi đi ra, miệng hơi hé mở, bụng phải thóp lại, âm thanh bật ra từ trong cổ họng, đó là thứ âm thanh bị tắc (do kết thúc bằng phụ âm t- tắc vô thanh). Tiếng khóc này không thể to được. Vì thế phán mọc sừng khóc to (cốt là để Xuân chú ý), nhưng tiếng khóc ấy không thể kéo dài được, nó là âm thanh bị khiên cưỡng, gượng ép. Do đó, vì “ khóc to quá” nên phán mọc sừng “ muốn lặng đi”. Lúc đó, bắt buộc (về mặt nghệ thuật) Xuân phải đỡ lấy ông. Khi Xuân đỡ lấy ông, thì Xuân “ không làm sao cho ông đứng hẳn lên được”, ông phải cứ “ oặt người đi” như thế mới “ Hứt! Hứt! Hứt!... mãi mà không thôi” được. Tất nhiên là cái “ oặt người đi” này của phán mọc sừng thể hiện nỗi đau khổ giả tạo tài tình, và có “ oặt người” như thế mới dúi vào tay Xuân một cái giấy bạc gấp tư mà không ai hay biết được.

Chúng ta hãy hình dung màn kịch rất độc đáo này, khi mà Xuân cố giữ lấy phán thì phán càng “ oặt người đi”. Dù trong tác phẩm không nói, nhưng ta cũng biết cụ Hồng, Xuân tóc đỏ và phán mọc sừng phải đứng bên miệng huyệt, vì đó là giây phút cuối cùng vĩnh biệt người chết, con cháu không thể đứng nơi khác được, càng không thể “ ngất đi” hay “ oặt người” ở một nơi khác được, nó sẽ trở nên lố bịch. Cái “ oặt người” này vẽ ra trước mắt ta cảnh tượng, một con người rất đau đớn như muốn níu giữ lấy quan tài, muốn nhào xuống huyệt, còn một người thì cố giữ cho được. Một sự giằng co, níu giữ. Do đó, tiếng nấc của phán mọc sừng càng nghẹn ngào thì lực neo của Xuân càng tăng, vì thế Xuân “ muốn bỏ quách tay ra” (thể hiện bản chất Xuân). Khi lên đến đỉnh điểm, phán mọc sừng vội hạ ngay xuống bằng một tờ giấy bạc, và hai nhân vật kết thúc việc làm trò. Như vậy nhân vật càng cố tạo thảm cảnh bao nhiêu thì tiếng cười càng sâu sắc, chua chát bấy nhiêu.

Tiếng khóc của phán mọc sừng là chi tiết nằm trong chuỗi cười của tác phẩm và tất nhiên, đi tìm tư tưởng của tác giả phải đi tìm từ sau chuỗi cười ấy, chứ không phải sau một biểu hiện của tiếng cười. Tiếng cười ấy ở đây phải đặt trong chỉnh thể của tác phẩm. Trước đó, nhà văn viết “ Đám cứ đi…”, tức là các nhân vật sẽ không được diễn trò nữa, chỉ có thể tiếng khóc cuối cùng mới làm được mà thôi. Do đó, không thể nói “ Hứt! Hứt! Hứt!” là “ Hất, hất, hất… xuống đất, hất mau xuống; lấp, lấp, lấp mau đi, chôn cái thây ma mà cả nhà mong mỏi” như Vũ Dương Quỹ nói được (4). Việc quan tâm của phán mọc sừng không phải là chôn mau hay không chôn mau vì sự đã rồi, nó sung sướng lắm rồi, mà cái quan tâm của nó là làm sao trả được Xuân năm đồng bạc mới đành lòng và làm sao để thể hiện được nỗi đau mất mát giả tạo nhất. Và càng không thể nói “ Nhân vật nói, hay chính ý tưởng, thông điệp của nhà văn… hất, hất, hãy hất tất cả tất cả bọn xuống mồ! Lấp, lấp, hãy lấp tất cả những gì là giả dối, rợm hợm, vô luân thường đạo lí(4)”. Nói thế, vô hình trung đã “ lấy tư tưởng để cắt nghĩa tư tưởng” (C. Mác) và xem nhân vật là cái loa phát ngôn tư tưởng của nhà văn. Thiết nghĩ nhà văn sẽ không vụng về đến mức phải gửi gắm thông điệp qua một sự biến âm ( hất thành hứt). Nếu nói “hất” dù tồn tại trong tư tưởng, ý nghĩ thì thường thể hiện kèm theo hành động (thường bằng tay), và nó không thể tạo thành tiếng khóc nghẹn ngào, do đó không thể làm nên sự giả tạo tuyệt vời của nó được. Nói về ứng xử nghệ thuật, thì nhà văn không thể cứ quanh quẩn mãi việc lật nhào cái xã hội ấy bằng cách như thế. Nếu tư tưởng của nhà văn muốn nói “ lấp đi” cái xã hội còn đâu một xã hội thì tiếp tục diễn trò ở phần còn lại của tác phẩm (5 chương). Điều này có nghĩa là nhà văn không thể lật nhào xã hội, rồi dựng nó lên để đánh tiếp những đòn khác. Làm như vậy mạch phát triển của truyện sẽ bị trùng lại, không được phát triển theo chiều tăng cấp. Theo chúng tôi, đám tang này (là “ hạnh phúc” của nhiều người) chỉ là chôn đi cái thây ma bằng xương bằng thịt, chôn cái thây ma để mở ra những trận cười khác, làm cho bản chất xã hội càng bộc lộ rõ mà thôi. Nghĩa là tính chất lên án, tố cáo xã hội của tác phẩm ngày càng lên cao, nó không dừng lại ở “một sân quần” hay “một đám tang”… Cái chết của cụ tổ là “hạnh phúc” của bao người. Cụ tổ chết đi, đám con cháu sẽ tha hồ mà vui sướng, xã hội còn tha hồ mà diễn trò đểu giả bịp bợm. Cái đáng lật đổ ở đây rõ ràng là “ xã hội cho đểu”. Nhưng, thông qua hệ thống sự kiện toàn tác phẩm. Bởi thế, nhà văn sẽ không thông qua nhân vật, một tiếng cười để “ chôn mau đi” xã hội rởm hợm, mà tự thân chuỗi sự kiện trong tác phẩm sẽ nói lên cần phải “ chôn đi mau”. Đây chính là nghệ thuật “ đánh địch” mà Xuân Diệu đã chỉ ra, đánh “ là dựng kẻ thù lên thành hình tượng sinh động, thành những tấm bia thịt cho độc giả phải bật lên tiếng chửi cùng một lúc với tiếng cười(5). GS. Nguyễn Đăng Mạnh rất tâm đắc nghệ thuật này và đã cho rằng “ Vũ Trọng Phụng chủ yếu dùng lối đánh này”. Đây chính là nghệ thuật rất cao tay của Vũ Trọng Phụng. Nói điều này để thấy rằng, tiếng khóc của phán mọc sừng thực chất là điểm nhấn “ làm nổi bật thảm kịch thực sự của con người giữa những sự giả dối buồn cười” (Emin Zôla), nó chỉ là một chi tiết góp phần cấu thành tiếng cười trào phúng trong tác phẩm trào phúng đích thực, trước hết phải thể hiện được bản chất tiếng cười, và tiếng cười kết thúc là đỉnh điểm, là lúc tiễn về quá khứ một cách vui vẻ (ý của C. Mác), lúc đó cũng là lúc cái xấu xa của đối tượng được bộc lộ đầy đủ nhất, rõ nét nhất, tất nhiên lúc đó bản chất tiếng cười là rõ nhất. Trong tác phẩm này, cảnh kết thúc là cảnh: Xuân tóc đỏ được mệnh danh là anh hùng cứu quốc, là vĩ nhân, được cụ Hồng hứa gả con gái, lời lẽ được ghi vào từ điển; bà Phó Đoan sẽ được tấm biển “ Tiết hạnh khả phong”. Rõ ràng Vũ Trọng Phụng đã để nhân vật đi từ một thằng “ ma cà bông” đến một “ anh hùng… vĩ nhân”, từ một mụ me Tây dâm đãng đến một người phụ nữ “ tiết trinh”… Sức tố cáo của tác phẩm lên đến đỉnh điểm, cả xã hội lật nhào dưới bàn tay khéo léo của người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng.

Trên đây là cách hiểu của chúng tôi về tiếng khóc của phán mọc sừng. Tiếng khóc này đã làm người đọc thấy được phần nào xã hội mà Vũ Trọng Phụng lên án. Qua tiếng khóc của phán mọc sừng, Vũ Trọng Phụng đã làm rõ mâu thuẫn trào phúng giữa “ tang gia” và “ hạnh phúc”, giữa bi và hài, giữa bên trong và bên ngoài. Đây chính là mâu thuẫn phạm trù “ cái hài” rất quan tâm. Secnưskepxki đã nói: “ cái hài là sự trống rỗng và sự vô nghĩa bên trong được che đậy bằng một cái vỏ huyênh hoang tự cho rằng có nội dung và ý nghĩa thực sự(6). Cách hiểu của chúng tôi cũng góp phần vào việc làm cho người dạy học phổ thông quan tâm hơn nữa tới chi tiết này. Bởi vì, hiện nay chi tiết này hầu như chưa được quan tâm thực sự.

(1)   Cách viết phán mọc sừng, xin xem SGK Văn học 11, tập I, Nxb Giáo dục, Thanh Hoá, 2000.

(2)   Các phần in nghiêng khác cũng xem SGK Văn học 11, tập I, Nxb Giáo dục, Thanh Hoá, 2000, tr. 186, 187.

(3)   SGK Văn học, tập I, Nxb Giáo dục Thanh Hoá, 2000, tr.180.

(4)   Vũ Dương Quy, Đám tang một người hay cuộc hành trình mới của toàn xã hội, trích theo Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.468.

(5)   Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội, 2003, tr232.

(6)   Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội, 2000, tr36.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Công nghệ mới trong xử lý chất thải góp phần phát triển bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam
Ngày 3/7, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Liên hiệp hội tỉnh Bắc Ninh và Hội Chăn nuôi Việt Nam tổ chức Hội thảo Phổ biến một số công nghệ mới có hiệu quả trong xử lý chất thải chăn nuôi. Hội thảo thu hút sự tham dự của đông đảo người sản xuất, kinh doanh, hộ chăn nuôi và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
"Sắp xếp lại giang sơn” là bước đi lịch sử
Sáng 30/6, Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về sáp nhập tỉnh, thành phố cùng các quyết định của Trung ương Đảng thành lập đảng bộ tỉnh và nhân sự lãnh đạo địa phương tại Thành phố Hồ Chí Minh và có bài phát biểu với nhân dân Thành phố, đồng thời gửi gắm thông điệp tới nhân dân cả nước.
Phối hợp thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật
Vừa qua, Viện Tài chính vi mô và Phát triển cộng đồng (MACDI) - tổ chức trực thuộc VUSTA - đã có buổi làm việc và ký kết thỏa thuận hợp tác với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế và Liên hiệp hội tỉnh nhằm triển khai Dự án “Thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tại An Giang, Bắc Ninh và Hòa Bình với sự tham gia của nhóm hỗ trợ trẻ hòa nhập”.
Công bố giải thưởng Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ XI
Sáng ngày 30/6, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Quảng Trị tổ chức Công bố các quyết định khen thưởng và trao thưởng Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Quảng Trị lần thứ XI (2024 – 2025). Tham dự có các thành viên trong Ban Tổ chức Hội thi; các tác giả, nhóm tác giả của 23 giải pháp, đề tài đạt giải tại Hội thi lần này.
Đoàn công tác VUSTA làm việc với CDC tỉnh Quảng Ninh về công tác phòng/chống HIV/AIDS
Chiều ngày 27/6, Đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Lãnh đạo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh (CDC) nhằm đánh giá tiến độ, kết quả triển khai các hoạt động trong khuôn khổ dự án Quỹ toàn cầu - VUSTA về phòng, chống HIV/AIDS.
Thanh Hóa: Sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm và phát động Giải thưởng Sáng tạo KHCN năm 2025
Ngày 27/6/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành mở rộng lần thứ 4 nhiệm kỳ 2024 - 2029 về sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2025, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm và phát động tham gia Giải thưởng Sáng tạo Khoa học công nghệ Việt Nam năm 2025 (Giải thưởng).
An Giang: Anh nông dân truyền cảm hứng giáo dục STEM
Anh Nguyễn Ngọc Đệ - một nông dân chỉ học hết lớp 6, hiện sinh sống tại xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang - đã xuất sắc đoạt giải Nhất tại Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh An Giang lần thứ XIV (2024-2025) với giải pháp mang tên “Mô hình Hạm đội Trường Sa phục vụ giáo dục STEM”.