Tích cực bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
Vấn đề sống còn của một quốc gia
Có thể nói rằng, chưa bao giờ Đảng, Nhà nước và toàn dân quan đến môi trường, ô nhiễm môi trường và BĐKH như hiện nay. Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, các khu công nghiệp, các cơ sở y tế, dịch vụ là nguồn gốc gây ô nhiễm các lưu vực sông chính như sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy, sông Đồng Nai - sông Sài Gòn. Ô nhiễm nước, ô nhiễm đất và ô nhiễm không khí đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống tinh thần và sức khỏe của con người. Trong khi đó, nhận thức và nhu cầu có một môi trường trong sạch của mỗi người dân ngày càng cao. Môi trường đã tác động, đã gắn bó với cuộc sống thường ngày của người dân như cơm ăn, áo mặc, như giáo dục và y tế. Những điều này yêu cầu chúng ta phải quan tâm nhiều hơn, tích cực hơn và hiệu quả hơn đối với các vấn đề môi trường.
Bên cạnh những tác động của môi trường, BĐKH không còn là nguy cơ mà đã thực sự hiện hữu. Lũ lụt ở Trung Quốc, sóng thần ở một số nước Đông Nam Á, động đất ở một số nước đã để lại những hậu quả rất nặng nề. BĐKH cũng là nguyên nhân chính gây lũ lụt bất thường ở miền Trung trong năm 2010. Lịch sử của ngành khí tượng chưa bao giờ thấy hiện tượng lượng mưa trong một ngày bằng lượng mưa trong cả một năm. Thiệt hại của lũ lụt rất nặng nề. Những gì mà chúng ta làm được từ hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, có thể thành con số không sau một sự cố thiên tai. Và thiệt hại do ô nhiễm môi trường, do BĐKH không thể chỉ được tính bằng tiền mà còn phải tính đến những giá trị văn hóa, nhân đạo không tính được bằng tiền. Môi trường và BĐKH không còn là những vấn đề có tính chuyên môn, chuyên ngành, dù rất lớn và phức tạp, mà thực sự đã trở thành một bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia, sự sống còn của một quốc gia.
Triển khai thực hiện chính sách, phấp luật bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức đúng về môi trường, BVMT và BĐKH. Thấu suốt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, cũng như Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, ngành TN&MT đã triển khai đồng bộ và tích cực hệ thống các giải pháp để BVMT, chủ động ứng phó với BĐKH, bảo đảm phát triển bền vững trên quy mô toàn quốc.
Với Luật BVMT năm 2005, Luật Đa dạng sinh học năm 2009, Chiến lược BVMT, Chiến lược Phát triển bền vững và nhiều văn bản dưới Luật, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật về BVMT khá toàn diện và đồng bộ, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Để triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT, hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về BVMT được hình thành và phát triển khá nhanh. Ở trung ương, ngoài Tổng cục Môi trường và một số cơ quan có liên quan thuộc Bộ TN&MT, tại hầu hết các bộ, ngành đều có cơ quan tham mưu và quản lý nhà nước về môi trường. Chi cục BVMT đã được thành lập tại 63 tỉnh và thành phố. Lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành lập và phát triển nhanh chóng. Thanh tra môi trường của Tổng cục Môi trường cũng được thành lập, phối hợp với Thanh tra Bộ TN&MT và Thanh tra của các tỉnh, thành phố triển khai các hoạt động thanh tra và kiểm tra trên quy mô toàn quốc. Các Ủy ban lưu vực sông chính được thành lập, tạo nên một cơ chế liên ngành, liên tỉnh, thành phố trong quản lý và BVMT lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy, sông Đồng Nai - sông Sài Gòn. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều tổ chức có chức năng nghiên cứu, đào tạo, tư vấn về môi trường và triển khai các hoạt động BVMT. Ngành công nghệ môi trường đã hình thành và sẽ phát triển nhanh. BVMT đã trở thành một nội dung không thể thiếu trong mọi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong các chương trình, dự án ở trung ương cũng như các tỉnh, thành phố. Theo nhận xét của một số bạn bè quốc tế, chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta đã xây dựng được một thể chế về quản lý môi trường mà đối với các quốc gia khác có hoàn cảnh tương tự phải làm trong hàng chục năm.
Với hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về môi trường, thực hiện các hoạt động BVMT với sự tham gia của hệ thống chính trị và mọi tổ chức và cá nhân, có thể khẳng định rằng, chúng ta đã hạn chế được sự gia tăng ô nhiễm môi trường, từng bước kiểm soát được ô nhiễm môi trường và sẽ tiến tới đẩy lùi ô nhiễm môi trường trong một tương lai gần, từng bước chủ động phòng ngừa, ứng phó và thích nghi với BĐKH.
Những khó khăn, thách thức và biện pháp giải quyết
Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức về ô nhiễm môi trường và BĐKH vẫn ở phía trước, đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức đúng và có những vấn đề cần nhận thức lại để đưa ra chính sách và hệ thống các giải pháp đúng đắn cho BVMT trước mắt và lâu dài.
Hiện nay, trên cả nước có hơn 1500 làng nghề và hơn 200 khu công nghiệp. Các khu công nghiệp và làng nghề đã và đang có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Những khu vực này cũng là nguồn gây ô nhiễm môi trường chủ yếu và muốn hạn chế nguồn ô nhiễm này, chúng ta rất cần nhiều giải pháp, từ chính sách, pháp luật đến công nghệ, kinh phí và ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp và mọi người dân.
Mặt khác, đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh; tăng dân số và tình hình di dân tự do diễn ra khá phức tạp; nhu cầu sử dụng nguyên liệu và tiêu hao năng lượng ngày càng tăng. Những đặc điểm này tác động mạnh đến môi trường và việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Chúng ta cần tránh việc lặp lại những lỗi lầm về môi trường và khai thác tài nguyên của các quốc gia khác đã mắc phải trong quá khứ như là những "lời nguyền của tài nguyên". Vì vậy, chúng ta cần khẳng định lại một lần nữa, phát triển kinh tế không phải đi đôi với BVMT mà phải gắn liền, có tính liên kết hữu cơ với BVMT. Phát triển kinh tế và BVMT như hai mặt của một tờ giấy. Không thể có một sự phát triển kinh tế bền vững mà không có việc BVMT, khai thác hợp lý tài nguyên. Quan điểm này phải được quán triệt sâu sắc và phải được thể hiện trong mọi quy hoạch, kế hoạch, dù ở quy mô nào hay loại hình nào. BVMT cần được gắn với trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân và mọi người dân cần ý thức rõ BVMT là bảo vệ chính mình, cho con em mình và trong lĩnh vực này nguyên tắc "mình vì mọi người, mọi người vì mình" là tuyệt đối đúng. Văn hóa môi trường cần được sớm hình thành bên cạnh văn hóa công sở, văn hóa thôn xóm, văn hóa doanh nghiệp.
Do yêu cầu của phát triển và do nhu cầu có một môi trường ngày càng trong sạch hơn, chúng ta ý thức rõ việc phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác trong ngành môi trường. Chúng ta cần nghiêm túc đánh giá lại tác động của Luật BVMT năm 2005, mặc dù Luật chỉ mới có hơn 5 tuổi, để ban hành Luật về môi trường mới rộng hơn, cụ thể hơn và thực thi hơn vào thời gian sớm nhất. Chính phủ cần xem xét, bố trí cán bộ quản lý môi trường cấp phường, xã đủ sức hoàn thành công tác BVMT, ứng phó với BĐKH từ cơ sở. Đầu tư cho môi trường và BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững, là đầu tư cho tương lai.
BộTN&MT tích cực, chủ động phối hợp với các bộ, ngành có liên quan để tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong BVMT và ứng phó với BĐKH. Những quốc gia sử dụng nhiều nguyên liệu, năng lượng và thải một khối lượng khổng lồ khí thải nhà kính phải có trách nhiệm giúp các nước còn nghèo khó, những nước đang chịu tác động của BĐKH, nhất là Việt Nam, một nước nông nghiệp và xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. An ninh lương thực Việt Nam cũng là một phần quan trọng của an ninh lương thực của thế giới.
Nhà nước cần có chính sách và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghệ môi trường, phát triển năng lượng sạch. Đây là hướng phát triển cơ bản và lâu dài. Chúng ta phải thực hiện nghiêm chỉnh chính sách không xuất khẩu thô tài nguyên, khuyến khích các công nghệ chế biến hiện đại trong ngành khai thác khoáng sản.








