Thuốc quý từ cây đinh lăng
Nhận dạng: Đinh lăng là loài cây bụi cao 0,5-2m, tiết mùi thơm ngọt đặc trưng, có thân nhẵn trắng không lông, ít phân nhánh, có rễ phù như củ, có lá kép dài khoảng 40cm, mọc sole, kép xẻ 3 lần. Mép lá có nhiều răng cưa nhuyễn, không đều. Các nhánh non có nhiều lỗ bì lồi, các nhánh già có vết của các gốc bẹn lá rụng để lại. Phát hoa trổ ở ngọn thành chuỳ có nhiều tán mang nhiều hoa nhỏ màu xanh bạc hoặc trắng xám. Cây có quả dẹt, dẹp, dài 3-4mm, dày 1mm, có màu trắng bạc.
Thành phần hoá học: Trong cây đinh lăng, người ta đã tìm thấy được các chất như alcaloit, glucoxit, saponin, tanin, vitaminB1 và 13 loại axit amin, đặc biệt có những axit amin quý không thay thế được như: lyzin, xystei, methionin. Cây trồng lâu năm có đủ giá trị dược dụng (thường cây sống trên 10 năm trở lên). Để có đủ tất cả tính dược lẫn hoạt chất, cây phải sống trên 60 năm. Cây già cổ sống đến hàng trăm năm có đủ linh khí và trở nên quý hiếm. Về mặt dược dụng, toàn cây đều có tác dụng bổ 5 tạng, giải độc, tiêu thực, tiêu sưng viêm, bổ huyết, tăng sữa.
Vị thuốc đinh lăng không gây nghiện và lờn thuốc, ít độc do không làm tăng huyết áp, luôn ổn định nhịp tim. Rễ có vị ngọt tính bình, chứa nhiều hoạt chất hơn thân và lá. Lá có vị nhạt hơi đắng và cũng có tính bình. Về tính năng, cây đinh lăng là thuốc bổ tăng lực, cường tráng, giúp hô hấp tốt, làm tăng sức chịu đựng của cơ thể, giúp mau chóng hồi phục sức lực, chữa kiệt sức, làm cho nhịp tim sớm trở lại bình thường (dùng tốt cho những người lao tâm lao lực, luyện tập trong và sau khi thi đấu thể dục thể thao), chống chịu với gia tốc (đi phi thuyền, máy bay, tàu xe…) chịu sức nóng và giúp điều nhiệt (làm việc trong hầm lò, đi thực địa hoặc du khảo ngoài trời, lao động trên công trường, trên độ cao, ngoài đảo xa) chịu áp suất lớn (thợ lặn sâu) tăng sức đề kháng đối với bức xạ siêu cang tầng (nhân viên làm việc ở các đài phát thành, truyền hình, trực ra-đa…) chống stress. Giúp thư giãn và giảm cuồng (trong điều trị bệnh thần kinh, tâm thần). Riêng đối với người bệnh suy mòn, kiệt sức, dùng đinh lăng giúp chóng phục hồi cơ thể, giúp ăn ngon, ngủ tốt, tăng cân. Đối với phụ nữ, làm tăng co bóp tử cung, tăng hưng phấn, giúp thụ thai. Trong y học cổ truyền thường dùng làm thuốc bổ, trị suy nhược cơ thể, giải độc, tiêu hóa kém, dùng cho phụ nữ chậm mang thai và dùng sau khi sinh đẻ bị thiếu sữa, sản hậu, huyết xông, nhức mỏi tay chân, hỗ trợ sức khoẻ cho người già, trị bệnh phong thấp và bồi bổ cho trẻ con. Ngoài ra còn được dùng làm thuốc chữa bệnh, chữa ho, ho ra máu, chữa kiết lị, thông tiểu. Thân và cành cũng được dùng chữa phong thấp, đau lưng. Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt, sưng tấy, viêm vú.
Trong dân gian, lá đinh lăng được dùng để lót gối giải giường cho trẻ em đề phòng kinh giật. Đinh lăng còn được dùng để xông ra mồ hôi do cảm phong hàn và chữa chứng chóng mặt, nhai nuốt với một ít phèn chua để trị hóc xương cá, dùng tươi giã nát đắp ngoài trị viêm thần kinh, thấp khớp, các vết thương trầy xước. Đinh lăng còn làm săn da và dưỡng da mặt. Ở nhiều nước như Ấn Độ, Campuchia, Lào, Philippines vỏ cây đinh lăng nghiền thành bột là thuốc uống dân gian giúp hạ nhiệt trị bệnh sốt cấp tính.
Cách thu hái và chế biến: Vào mùa xuân, thu hái rễ to để lột lấy vỏ hoặc thu toàn bộ rễ nhỏ rửa sạch đất cát, đồ chín, thái nhỏ, phơi hay sấy khô là được. Khi dùng nên tẩm nước gừng tươi 5%, sao qua bằng lửa nhỏ rồi tẩm bột mật ong để sử dụng trong một hai ngày. Lá non dùng làm rau ăn ghém, ăn gỏi. Lá già hãm trà hoặc sắc thuốc uống nóng.
Một vài phương thuốc thông dụng :
-Chữa chứng nóng sốt lâu ngày, nhức đầu, khát nước, ho, tức ngực, tiểu tiện vàng:Đinh lăng 30g, cảm thảo 30g (có thể thay bằng cam thảo đất - cam thảo nam 30g), vỏ quýt 10g, lá tre tươi 20g, rau má tươi 30g, me chua đất 20g cho vào nồi đổ ngập nước sắc còn 250ml chia uống 3 lần trong ngày (có thể thêm sài hồ: lá, rễ, cành – 20g). Nếu cần tăng cường thông tiểu nhanh trong khi sắc nên bỏ sài hồ và giảm rau má, me chua đất, thêm 50g rễ tranh hoặc 100g mía lau, và 20g mã đề (trong trường hợp cấp cứu không đào được rễ tranh, có thể dùng lá tre và lá tranh để sắc chung cũng hữu hiệu cấp thời)
Chữa bệnh mệt mỏi, biếng hoạt động:Bột rễ đinh lăng 0,5g đun với 100g nước/uống ngày 3 lần. Thông tia sữa, căng vú: Rễ đinh lăng 30-40g sắc với 500ml còn 25ml, hâm nóng chia ra uống nhiều lần (5-8 lần/trong ngày), trong 2-3 ngày. Giúp tăng sữa: Lá tươi 50-100g băm nhuyễn với bong bóng lợn trộn với gạo nếp nấu cháo cho sản phụ ăn sẽ tăng nhiều sữa.
Chữa vết thương trầy xước:Rửa sạch vết thương bằng cồn nhẹ và giã nát một nắm lá đinh lăng đã rửa bằng nước sạch pha cồn dùng đắp từ ngoài rìa vào trong. Vết trầy mau chóng lành và chóng kéo da non. Ngoài ra, người phụ nữ trước và sau khi mang dùng định kỳ các bộ phận của cây đinh lăng sẽ giúp an thai trong thai kỳ, sinh nở dễ dàng, cho nhiều sữa tốt, em bé về sau có hệ cơ và hệ tuần hoàn khoẻ mạnh, góp phần giúp trẻ phát triển trí thông minh (cấm dùng cho phụ nữ mang thai)
Ứng dụng trong đào tạo, luyện tập và thi đấu thể dục thể thao:
Vì mục đích đạt thành tích cao trong thi đấu, một số vận động viên đã sử dụng các chất kích thích mạnh có nguồn gốc từ động thực vật hoặc tổng hợp đã làm suy đồi đạo đức thể dục thể thao, tác hại xấu đến sức khoẻ của các vận động viên, để lại di chứng và bệnh tật. Nhưng nếu chúng ta chỉ tổ chức luyện tập bằng ý chí và sức lực mà thiếu bồi bổ, thiếu phương pháp khoa học, thiếu phương tiện thì không thể có kết quả tốt hơn được. Trẻ em có năng khiếu thể thao và các vận động viên, ngoài việc được tổ chức huấn luyện một cách khoa học, có chế độ bồi dưỡng và nghỉ ngơi đặc biệt, cần tăng cường sử dụng các sản phẩm chế biến từ các bộ phận của cây đinh lăng. Tuy nhiên phải được các thầy thuốc theo dõi định kỳ, tránh lạm dụng thái quá.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 263, ngày 9/4/2005