Thuốc chữa bệnh từ sản phẩm con ong
CÁC SẢN PHẨM CON ONG DÙNG LÀM THUỐC
Mật ong:Có hai nguồn hoặc lấy từ ong hoang ở rừng hay từ ong nuôi ở nhà. Mật ong rừng và mật ong nuôi cũng giống nhau, phẩm chất tùy thuộc vào nguồn thức ăn của ong, mà không phụ thuộc vào giống ong, ong nhỏ (ong ruồi, ong muỗi) hay ong to (ong khoái). Nếu ong nuôi với đường thì chất mật xấu hẳn, loãng, chua và kém thơm. Ong nuôi hay sống hoang ở vùng có nhiều hoa của cây ăn quả như nhãn, vải hoặc đậu, bạch đàn thì mật ong ngon lành, trái lại ở vùng có hoa cây thuốc lá hay cà độc dược thì mật ong có độc. Mật ong sú vẹt, táo, có hàm lượng nước cao nên mật dễ bị lên men chua. Muốn ổn định chất lượng của mật ong trong quá trình bảo quản, người ta làm bay hơi nước tới hàm lượng nước 17-20%.
Mật ong là một vị thuốc quý đại bổ, được sử dụng rất sớm trong y học phương Đông cũng như phương Tây. Người ta đã tìm thấy trong một kim tự tháp ở Ai Cập một bình mật ong đã để hơn 3.000 năm mà không bị hỏng, còn giữ được vị thơm ngon. Trong một nghiên cứu lâm sàng, những bệnh nhân lao phổi được uống mỗi ngày 100-150g mật ong thấy sức khỏe ngày một tăng lên, thể trạng và máu bệnh nhân tốt hơn.
Mật ong có tác dụng làm giảm độ acid của dịch vị tới mức bình thường, giảm đau, giảm loét và đặc biệt có tác dụng diệt vi khuẩn Helicobacter pylori là một trong những nguyên nhân quan trọng gây viêm loét dạ dày. Mật ong làm hết các triệu chứng đau xót khó chịu của bệnh, các bệnh nhân được điều trị bằng mật ong đều tăng cân, sự tiêu hóa tiến triển tốt hơn. Mật ong cũng có tác dụng diệt hoặc ngăn cản phát triển những loài vi khuẩn khác như: Tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn.
Mật ong là một thuốc an thần tốt giúp cho giấc ngủ được ngon và làm bệnh nhân đỡ nhức đầu, và còn được dùng để chữa ho khan, viêm họng. Ngày dùng 20-50g, có thể dùng tới 100-150g, nhưng liều cao có thể gây tác dụng nhuận tràng. Dùng ngoài mật ong nguyên chất hoặc chế thành dạng kem bôi để trị mụn nhọt, vết thương, vết loét, viêm miệng, lở môi, tưa lưỡi.
Sữa ong chúa:Là loại thức ăn đặc biệt của ong để nuôi những ấu trùng trở thành ong chúa. Sữa ong chúa chứa nhiều chất dinh dưỡng, được cho là một vị thuốc bổ cao cấp. Một nghiên cứu lâm sàng cho thấy sữa ong chúa có tác dụng tốt đối với chấn thương nặng ở mắt do chất kiềm. Sữa ong chúa được bào chế dưới dạng viên nang, dùng cho người suy nhược, mới ốm dậy, già yếu, trẻ em suy dinh dưỡng, phụ nữ sau khi sinh bị băng huyết, thiếu máu hoặc ít sữa, mất ngủ, kém ăn. Liều dùng hàng ngày: Người lớn 60-90mg, trẻ em: 15mg. Dùng ngoài dạng kem 2%, ngày bôi 2-3 lần.
Nọc ong:Người ta thu nọc ong bằng một máy lấy nọc dùng điện kích thích ong tiết nọc lên trên kính. Dòng điện tự động ngắt đóng theo chu kỳ, nên ong sau khi tiết nọc bay đi một cách dễ dàng không chết. Nọc ong được bào chế thành dạng kem bôi chứa 0,15mg hoặc 0,3mg trong 10g kem để bôi ngoài làm thuốc giảm đau tại chỗ. Được dùng để điều trị các chứng đau cơ như đau lưng, đau mình mẩy, đau dây thần kinh, hội chứng đau đốt sống. Ngày bôi 1-2 lần (xoa sau khi bôi để thuốc ngấm kỹ).
Keo ong: Là chất mà ong tiết ra để làm vật liệu xây dựng tổ, phủ lên các vách, dính các khoang với nhau để làm cho chắc và lấp đầy các khe rãnh. Keo ong được chứng minh là có tính chất kháng sinh mạnh nhất của tổ ong. Đó là một chất nhựa có mùi dễ chịu. Keo ong đã được nghiên cứu chữa viêm niêm mạc miệng và viêm các mô quanh răng, xông hít để điều trị viêm đường hô hấp, chữa viêm tai và một số bệnh ngoài da. Trong keo ong có một flavonovid là galangin, là hoạt chất có tác dụng bảo vệ và phục hồi các mô liên kết.
Keo ong có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm và chống ngứa ngoài da, làm dịu đau ở niêm mạc và da, kích thích tái tạo mô và làm vết thương mau lành, keo ong được bào chế dưới dạng nhũ dịch 10% trong nước và kem 10%. Được dùng ngoài để điều trị vết thương hay loét ngoài da, nhất là các trường hợp bệnh lâu khỏi, eczema (chàm) mạn tính, viêm dây thần kinh và các bệnh ngoài da có ngứa. Ngày dùng 1-2 lần; đợt dùng 2-3 tuần. Không dùng trong trường hợp eczema cấp tính, hoặc có mẫn cảm với sản phẩm ong.
Phấn hoa:Do ong lấy từ hoa mang về tổ. Được dùng làm thuốc bổ, tăng cường sức chống đỡ với bệnh tật, chữa suy dinh dưỡng.
CÁC BÀI THUỐC CÓ SẢN PHẨM CON ONG
Bài 1. Chữa loét dạ dày - tá tràng:Mật ong, cam thảo sống, mỗi vị 10g, trần bì 6g, nước 400ml. Trước hết sắc cam thảo và trần bì với nước, đến khi cạn còn 200ml thì chắt lấy nước sắc, bỏ bã. Thêm mật ong vào, chia làm 2-3 lần uống trong ngày.
Bài 2. Chữa tăng huyết áp, táo bón:Mật ong 60g, vừng đen 50g. Nấu vừng cho chín, giã nát rồi thêm mật ong và 200ml nước vào khuấy đều, chia làm 2 lần uống trong ngày.
Bài 3. Chữa lao phổi:Bách bộ, thiên môn, mật ong, mỗi vị 10g. Sắc bách bộ và thiên môn với nước, gạn lấy nước sắc đặc, rồi cho thêm mật ong vào, chia làm 2 lần uống trong ngày.
Bài 4. Thuốc bổ mật ong sữa chua:Mật ong chứa 4% sữa chua, dùng làm thuốc bổ. Ngày dùng 2-3ml, ngậm trong miệng đến khi tan hết.
Bài 5. Chữa cơ thể và thần kinh suy nhược:Ăn mật ong đánh với trứng gà vào buổi sáng sớm và buổi tối trước khi đi ngủ.
Bài 6. Chữa hạ đường huyết và hạ huyết áp:Uống 10ml mật ong hòa với nước đun sôi.
Bài 7. Chữa ho trẻ em:Hoa hồng trắng tươi 1 bông, quất chín 1 quả, mật ong 1 muỗng cà phê. Tất cả cho vào một chén con sạch, hấp cơm, rồi nghiền nát, gạn lấy nước cho trẻ uống làm nhiều lần trong ngày.








