Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 15/03/2012 21:29 (GMT+7)

Thực trạng và giải pháp phát triển rau an toàn ở Thừa Thiên Huế

Đến nay, đã có nhiều chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) được ứng dụng trong sản xuất rau, song hiệu quả vẫn còn rất hạn chế và đôi khi tính khả thi không thực sự cao đối với nông dân khi triển khai trên diện rộng. Để đối phó với sâu, bệnh hại, bảo vệ sản xuất và tăng lợi nhuận, người nông dân vẫn chủ yếu dựa vào biện pháp sử dụng thuốc hóa học bảo vệ thực vật và những chất kích thích sinh trưởng không rõ nguồn gốc. Biện pháp này không chỉ ảnh hưởng đến người sản xuất, đến môi trường mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng, và sự phát triển du lịch, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

Để tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp nói chung và trong lĩnh vực trồng trọt nói riêng phát triển bền vững, bảo vệ môi truờng sinh thái, tạo ra những sản phẩm có chất lượng, an toàn phục vụ cho người dân và du khách, nâng giá trị và hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống người lao động, việc phát triển rau an toàn là một yêu cầu cần thiết.

Thừa Thiên Huế là một trong những trung tâm văn hoá, du lịch của cả nước. Hàng năm trên địa bàn tỉnh  đón nhiều  khách du lịch trong nước và quốc tế, hàng vạn sinh viên các tỉnh về cư trú học tập. Công nghiệp của tỉnh đang trên đà phát triển mạnh, nhiều khu công nghiệp đang được xây dựng, nhiều đô thị mới sẽ được hình thành. Do đó nhu cầu các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, an toàn  phục vụ cho đời sống ngày càng tăng.

* Tình hình sản xuất rau an toàn ở Thừa thiên Huế :

Toàn tỉnh có diện tích sản xuất rau trên 3200 ha, song phân bố không đều, manh mún, nhỏ lẻ mang tính thời vụ, tự cung tự cấp. Chỉ có một số vùng trồng tập trung, chuyên canh chủ yếu ở thành phố Huế và một số xã vùng ven như Quảng Thành, Quảng Thọ - huyện Quảng Điền, Hương An, Hương Xuân, Hương Chữ -huyện Hương Trà, Phú Mậu - huyện Phú Vang,...

Năm 2009, thông qua một số các đề tài, dự án, chương trình của Trung tâm Khuyến Nông Lâm Ngư, của trường Đại học Nông Lâm Huế, và một số tổ chức khác, một số mô hình sản xuất rau an toàn đã được triển khai tại các địa phương  như: HTX Hương Long - TP Huế ( 0,5ha), HTX Kim Thành - Quảng Thành (1,1 ha),  HTX La Chữ -Hương Trà (1 ha),…

- Từ năm 2009 đến nay, các dự án được ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh Thừa Thiên Huế đầu tư hỗ trợ như dự án nông thôn miền núi cấp nhà nước ủy quyền địa phương quản lý “Xây dựng mô hình ứng dụng các sản phẩm công nghệ sinh học để tổ chức sản xuất rau an toàn theo hướng VietGAP tại huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” do Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Quảng Điền chủ trì thực hiện với diện tích 3,4 ha; 6 loại rau: cải xanh, xà lách, cải cúc, rau thơm, rau má và mướp đắng, được thực hiện tại 2 xã Quảng Thành và Quảng Thọ; dự án khoa học công nghệ “Hỗ trợ phát triển rau an toàn” do truờng Đại học Nông Lâm Huế chủ trì với quy mô diện tích là 2,4208 ha thực hiện tại các HTX Hương Long và Hương An. Đến nay đã cho một số kết quả khả quan.

- Tính đến nay đã có 5 đơn vị được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN & PTNT) tỉnh Thừa Thiên Huế cấp giấy đủ điều kiện sản xuất kinh doanh rau quả an toàn, cụ thể như sau:

Đơn vị

DT (ha)

Chủng loại rau quả

Số QĐ-ngày

HTX Kim Thành, xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền

1,6

Cải xanh, Cải cúc, Xà lách, Rau thơm

577/ QĐ-NNPTNT ngày 11/8/2010

HTX Quảng Thọ 2, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền

1,8

Rau má, Mướp đắng

576/ QĐ-NNPTNT ngày 11/8/2010

HTX Hương An, xã Hương An, huyện Hương Trà

0,9893

Rau cải, hành lá, xà lách, kiệu, rau thơm

737/ QĐ-NNPTNT ngày 7/10/2010

HTX Hương Chữ, xã Hương Chữ, huyện Hương Trà

1,075

Xà lách, hành hoa, kiệu, dền đỏ, rau thơm...

05/ QĐ-NNPTNT ngày 06/01/2010

HTX Hương Long, TP Huế

1,4315

Rau cải, hành lá, xà lách, kiệu, nưa, paro

768/QĐ-NNPTNT ngày 03/12/2010

Tổng cộng

6,8958 ha

(Nguồn Sở NN &PTNT tỉnh Thừa Thiên Huế)

- Sở NN & PTNT đã chỉ định Trung tâm Khuyến Nông Lâm Ngư tỉnh là tổ chức thực hiện chứng nhận VietGAP cho rau, quả an toàn trên địa bàn tỉnh (Quyết định số 668/QĐ-NN&PTNT ngày 11 tháng 9 năm 2010) ,hoàn thiện thủ tục hành chính về cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn cho các địa phương.

Nhìn chung, tình hình sản xuất rau an toàn vẫn còn dừng lại ở mức độ sản xuất thử nghiệm với quy mô nhỏ, thị trường tiêu thụ rau an toàn chưa nhiều. Các đơn vị sản xuất mới chỉ thực hiện đăng ký đủ điều kiện sản xuất, chưa có đơn vị nào công bố sản phẩm rau quả sản xuất được áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau, quả tươi an toàn theo Quyết định số 379/QĐ/BNN-KHCN ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ NN & PTNT.

Tuy vậy, có một số đơn vị đã có nhiều cố gắng trong bảo quản, sơ chế, tiếp thị quảng cáo và cho ra được những sản phẩm có chất lượng như Doanh nghiệp tư nhân Rau an toàn Hóa Châu thu mua ở nông dân và sơ chế cung cấp cho các siêu thị như: Siêu thị Thuận Thành 1, Siêu thị Thuận Thành 2, Siêu thị Tràng Tiền (COOP MARK Huế), Siêu thị Big C.

* Cơ sở khoa học và thực tiễn

- Quy hoạch chuyển đổi rau an toàn là chuyển đổi kỹ thuật canh tác, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới để sản xuất được các loại rau quả có dư lượng kim loại nặng, dư lượng thuốc BVTV dưới ngưỡng quy định để không gây ra nguy hiểm cho sức khoẻ con người. Bởi vậy, quy hoạch này không làm  thay đổi hiện trạng sử dụng đất  nông nghiệp.

- Nhiều thành tựu khoa học trong sản xuất, chế biến, bảo quản được ứng dụng là cơ hội để phát triển như các giống rau cao cấp, chương trình quản lý dịch hại tổng hợp trên rau màu; các sản phẩm của công nghệ sinh học như phân bón sinh học, thuốc trừ sâu sinh học; công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ phân tích nhanh dư lượng thuốc BVTV trên rau...

- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế yêu cầu các sản phẩm nông nghiệp phải được nâng cao về chất lượng. Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội để thực hiện quy hoạch sản xuất. Sản phẩm rau an toàn đang ngày càng có nhu cầu lớn cho tiêu dùng trong bữa ăn hàng ngày khi mà chất lượng cuộc sống đang ngày được nâng cao, sự cân đối dinh dưỡng trong bữa ăn đang được nhiều ngưòi quan tâm để bảo vệ cho sức khoẻ của họ.

- Điều kiện khí hậu, thời tiết tại Thừa Thiên Huế tuy có những bất lợi nhất định, song cơ bản vẫn thuận lợi  cho các loại rau sinh trưởng phát triển tốt.

- Nông dân có tập quán trồng rau, màu từ xưa đến nay, họ có nhiều kinh nghiệm có chuyển biến về nhận thức trong sản xuất nông nghiệp, có khả năng tiếp thu chuyển giao công nghệ.

* Những lợi thế và tồn tại trong sản xuất rau an toàn ở Thừa thiên Huế

Những lợi thế:

- Là trung tâm văn hoá du lịch của miền Trung và của cả nước, dân số đông, lượng khách du lịch hàng năm lớn. Với nhu cầu sử dụng thực phẩm cho đời sồng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng chứng tỏ tiềm năng rất lớn về thị trường tiêu thụ của các sản phẩm rau, đặc biệt là các sản phẩm có chất lượng cao, an toàn trong hiện tại cũng như trong thời gian tới.

- Có nhiều cơ quan nghiên cứu, đào tạo đóng trên địa bàn (các trường đại học, cao đẳng, các trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật). đây là điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.

- Nhiều chương trình, dự án đã và đang đầu tư đáng kể cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.

- Cơ hội tiếp cận thông tin tại nông thôn được tăng cường và mở rộng đã tạo điều kiện cho nhận thức của nông dân chuyển biến đáng kể, tập quán sản xuất tự cung, tự cấp đang chuyển dần sang sản xuất hàng hoá, nâng cao giá trị và hiệu quả.

Những hạn chế, tồn tại:

- Diện tích sản xuất rau của từng hộ nông dân phân tán, manh mún, năng suất rau còn thấp, chưa xứng với tiềm năng đất đai.Chất lượng rau vẫn chưa được theo dõi kiểm định đánh giá theo các tiêu chuẩn quy định.

- Thiếu cơ sở chế biến, thông tin thị trường còn thiếu và yếu, chưa hình thành được hệ thống tiêu thụ sản phẩm ổn định  phục vụ người sản xuất.

- Việc sơ chế, bảo quản rau  để cung cấp cho thị trường chưa được quan tâm nên ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm khi tiêu thụ.

- Sản phẩm  kém đa dạng về chủng loại nên chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, giá cả  bấp bênh, không chủ động trong tiêu thụ sản phẩm. 

- Điều kiện thời tiết khí hậu có hai mùa mưa nắng rõ rệt, đặc biệt có mùa mưa với lượng mưa lớn rất khó khăn cho việc bố trí  đa dạng thành phần các loại rau quả, củ. Trong các mùa thuận lợi như xuân hè chỉ thuận lợi để phát triển một số loại rau ăn lá, rau gia vị...Đây cũng là trở ngại rất lớn trong việc tiếp cận các thị trường lớn.

- Năng suất, sản lượng rau còn thấp và không ổn định. Nguyên nhân do nông dân sử dụng giống tại chỗ, mua giống không đảm bảo chất lượng, mặt khác sản xuất trong mùa nắng hạn thường thiếu nước và thiếu vật liệu che phủ nên rau sinh trưởng và phát triển kém dẫn đến năng suất thấp. Chất lượng rau vẫn chưa được theo dõi kiểm định đánh giá theo các tiêu chuẩn quy định.

* Đề xuất giải pháp 

Giải pháp về chính sách:

- Thực hiện rà soát, đánh giá hiệu quả quá trình thực hiện chương trình quy hoạch chuyển đổi cây rau an toàn giai đoạn 2006 - 2010 và xây dựng quy hoạch phát triển đến năm 2020.

  - Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo cơ chế thông thoáng thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh rau an toàn .

- Ngân sách Nhà nước hổ trợ cho công tác điều tra cơ bản xác định vùng sản xuất, xây dựng cải tạo cơ sở hạ tầng, kho bảo quản, xúc tiến thị trường, chợ bán buôn, chứng nhận đủ điều kiện sản xuất an toàn.

- Tập trung đầu tư có trọng điểm vào các vùng trồng rau truyền thống, có điều kiện thuận tiện về cơ sở hạ tầng, đủ điều kiện để sản xuất rau an toàn, thuận lợi trong tiêu thụ sản phẩm.

- Hỗ trợ việc cấp chứng nhận ViêtGAP cho sản phẩm rau an toàn ở những địa phương đủ điều kiện.

- Hỗ trợ nông dân trong bảo quản bằng việc đầu tư công nghệ sau thu hoạch nhằm nâng cao giá trị của sản phẩm, khuyến khích áp dụng quy chuẩn QCVN 01-09 : 2009/BNNPTNT (Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cơ sở chế biến rau quả - Điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm).

Các giải pháp về kỹ thuật, khoa học và khuyến nông :

 - Tổ chức chuyển giao ứng dụng công nghệ sản xuất giống rau, tăng cường công tác quản lý chất lượng giống  đối với các cơ sở sản xuất và kinh doanh giống rau  trên địa bàn.

  - Tập trung xây dựng hoàn chỉnh quy trình sản xuất cho từng chủng loại rau, đặc biệt là các loại rau có khả năng tiêu thụ và thích ứng cao với điều kiện tự nhiên của địa phương.

  - Tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật công nghệ  sản xuất rau an toàn (đặc biệt hướng dẫn và quản lý chặt chẻ việc thực hiện các biện pháp canh tác có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng rau như chủng loại và số lượng phân bón, loại thuốc BVTV sử dụng, thời gian cách ly, nguồn nước sử dụng...) và chỉ đạo thực hiện đúng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP), quản lý tốt chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường.

- Tăng cường ứng dụng các chế phẩm sinh học trong chăm bón và phòng trừ sâu bệnh cho rau đã được Bộ NN & PTNT cho phép sử dụng.

- Nghiên cứu toàn diện về điều kiện sinh trưởng phát triển các loại rau, cần nghiên cứu các yếu tố can thiệp để đưa các giải pháp đầu tư cho việc trồng rau trái vụ bằng công nghệ làm nhà lưới, phun mưa, tưới nhỏ giọt và những vấn đề kỹ thuật khác... để xác định được hiệu quả kinh tế của các loại rau trên địa bàn tỉnh. Nghiên cứu và ban hành quy trình áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp để hạn chế sâu bệnh cho các  loại rau, đặc biệt khuyến cáo sử dụng thiên địch, các loại thuốc thảo mộc, thuốc có độ độc thấp nằm trong danh mục được phép sử dụng cho rau quả.

- Xác định, khuyến cáo và chuyển giao quy trình, tiến bộ kỹ thuật, biện pháp canh tác, công nghệ sau thu hoạch ...có tính thực tiễn cao với địa phương bằng nhiều hình thức như: Xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn đào tạo, các tờ rơi, tài liệu phát tay, các chương trình, các chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Tập huấn chuyển giao công nghệ sau thu hoạch,  nhằm nâng cao giá trị của sản phẩm, kéo dài thời gian kinh doanh sau thu hoạch.

Các giải pháp hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm:

- Xây dựng các kênh thông tin trực tiếp qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, các tổ chức đoàn thể, các HTX, …về sản xuất  và các sản phẩm rau an toàn trên địa bàn tỉnh.

- Hỗ trợ việc xây dựng và quảng bá  thương hiệu hàng hoá cho các sản phẩm rau an toàn bằng cách in ấn các panô, áp phích, tờ rơi … phối hợp với các cơ quan truyền thông sản xuất các tin, bài, phóng sự …phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng.

-Khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, tiếp tục hỗ trợ Doanh nghiệp tư nhân Rau an toàn Hoá Châu quảng bá, tiêu thụ sản phẩm rau an toàn.

Công tác quản lý nhà nước :

- Xây dựng, ban hành các văn bản quản lý sản xuất, kinh doanh rau tại địa phương trên cơ sở các văn bản quy định của Nhà nước về sản xuất, kinh doanh sử dụng rau an toàn và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương

-Tăng cường công tác tập huấn, tuyên truyền phổ biến kiến thức quản lý nhà nước về lĩnh vực rau quả an toàn đến các thành phần liên quan nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, sử dụng và đảm bảo thực hiện đúng các quy định đã ban hành.

  -Tăng cường công tác thanh kiểm tra hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý chất lượng giống, vật tư hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón ... trong sản xuất rau, sử dụng rau an toàn nhằm đảm bảo sản phẩm rau xanh cung ứng cho thị trường đạt chất lượng theo các tiêu chuẩn quy định để bảo vệ lợi ích và sức khoẻ cho người nông dân, người tiêu dùng và toàn thể cộng đồng.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.