Thực tại với nghệ thuật
Nhân kỷ niệm 88 năm ngày sinh của Nguyễn Đình Thi, xin giới thiệu với bạn đọc bài viết trên.
Trước hết chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu sâu thêm hai chữ “tả thực”. Tác phẩm văn học nghệ thuật là một phản ánh của thực tại và nhà văn hoặc nghệ sĩ dù tưởng tượng gì, cũng là bắt đầu đi từ những điều mình đã thấy, đã nhận xét được trong đời sống. Cô tiên cũng chỉ là cô gái có chắp đôi cánh chim, con quỷ sứ cũng chỉ là một thứ người đầu trâu mặt ngựa. Nhưng nghệ thuật không phải chỉ làm công việc bắt chước cuộc đời thực, chép lại hiện thực – cái thực tại hiện thời. Nếu chỉ cần họa sĩ để ghi thực đúng quang cảnh trận sông Lô chẳng hạn thì sao bằng dùng máy ảnh hay máy quay phim. Và điệu hò hay bài dân ca nếu chỉ có giá trị ghi chép việc thời cũ, hẳn ngày nay đã trở thành những tài liệu nằm yên trong các viện bảo tàng, dành riêng cho các học giả đến phủi bụi nghiên cứu.
Tuồng hay chèo của ta không bắt chước “y như sự thực”. Làm gì có người trong đời cầm roi ngựa quất vào chân mình mà nhảy múa, làm gì có người vừa hát vừa xưng tên “mỗ đây”, vậy mà vai Lưu Bình hoặc vai hề đồng sao ta thấy “thực” lắm thay. Đến kịch, nếu bảo kịch là bê ngay một mẩu đời có thực lên sân khấu, thì nào đâu? Cái cửa sổ bằng giấy bồi kia chỉ là đánh lừa người xem, cũng như tất cả bài trí. Trong một cuốn tiểu thuyết, những nhân vật rất ít khi làm anh Năm chị Bảy nào có thực. Có cô Kiều nào trong đời thực nói lên một lúc mấy chục câu thơ lục bát trau chuốt như cô Kiều của cụ Nguyễn Du? Vậy mà mọi người đều cảm động theo từng lời nói của cô Kiều trong truyện.
Cuộc sống không cần văn nghệ làm một tên hề đồng lóc cóc chạy theo sau cố bắt chước cho thật đúng. Người đọc hay người xem đòi hỏi ở các tác phẩm văn học nghệ thuật, không những là một bức tranh giống sự thực, không những là các tài liệu ghi lại thực tế đời sống, mà còn những gì khác nữa, làm cho người ta say mê và xúc động, làm cho người ta suy nghĩ và tự mình rút ra những nhận xét đánh giá về lối sống.
Nghệ sĩ phải có một điều gì đó để gửi tới mọi người. Nghệ sĩ lấy những việc của thực tại để ”tuyên truyền” một cái gì.
Lời “tuyên truyền” ấy của nghệ sĩ không phải là một bài diễn thuyết, một cuộc suy lý trừu tượng của trí tuệ. Nghệ sĩ không thuyết giảng luân lý, chính trị hay triết học, mà giới thiệu với xã hội một cách nhìn nghe cuộc đời hàng ngày, một sự đánh giá, một thái độ yêu ghét đối với cuộc đời ấy, một cách sống của tâm hồn người.
Nghệ sĩ nói chuyện với lòng chúng ta, với tình cảm chúng ta. Nghệ sĩ đem thêm vào cuộc sống chúng ta cảm xúc và suy nghĩ thêm sâu sắc, sáng rõ, tươi mới. Nghệ thuật mở rộng và nâng cao cái vốn trí tuệ và tình cảm của xã hội, làm cho con người tự xây dựng được tâm hồn của nó.
Khi người nghệ sĩ ghi chép, miêu tả lại thực tại bên ngoài thì đồng thời anh ta cũng in dấu tâm hồn đang sống, đang xúc động của anh vào tác phẩm, chính điều đó làm cho giây phút say mê, ý nghĩ yêu mến hay tức giận chri có một lần của người nghệ sĩ có thể sống lại trong tâm hồn khác vào lúc khác, có khi ahfng mấy trăm năm sau. Cảo thơm lần giở trước đèn, đêm nay tôi đọc Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt mà còn bồi hồi nỗi bồi hồi của nhà thơ khi đặt bút viết một buổi nào cách đây hơn hai thế kỷ, trong tai nghe tiếng trống ngũ liên, đêm chiến trận.
Tác phẩm nghệ thuật là một hình ảnh của thực tại, nhưng đó là một hình ảnh có linh hồn. Mà chính cái “linh hồn” này mới làm cho tác phẩm sống, nghĩa là dù trải qua thời gian dài vẫn gây được những xúc động trong lòng người.
Cuộc sống muôn hình dáng, rộng lớn và tinh vi, đổi mới không ngừng, cuộc sống vô cùng, làm sao đem vào được những tác phẩm bị trói buộc trong cái hữu hạn của những công trình do con người làm ra? Làm sao đem một ít tiếng và chữ, nét và màu, nhịp và điệu mà làm hiện ngay lên một vẻ sống, một quang cảnh đang nhìn nghe thấy, một nỗi niềm đang xúc động? cả một đêm bồi hồi, lo lắng, khi nghe báo hiệu chiến tranh, làm thế nào hiện lên ngay được trong một vài vần thơ? Nhà thô cổ đã không tả lại, chép lại từng ly từng tí những quang cảnh, những sự việc của đêm ấy, trong làng xóm ra sao, trong nhà ra sao, kẻ đi người lại thế nào; nhà thơ đã chọn một nét, nhưng là nét chính, nó là cái “thần” của cả đêm ấy; một cảm xúc, nó cũng là cảm xúc mạnh hơn cả, thâu tóm hơn cả ý nghĩ, tình cảm trong đêm ấy, và nhà thơ viết: Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt. Nghệ sĩ tìm nét chính của sjw sống, nhưng nơi nào sự sống ấy mạnh nhất, sâu nhất, những nét “điển hình”, “những tính cách điển hình trong những trường điển hình” như Ăngghen nói. Sáng tác nghệ thuật không đứng ở mức thường thường của tâm hồn, văn nghệ cấm kỵ nhất là sự bằng phẳng nhạt nhẽo. Đem nhỏ vào bình nước xanh vài giọt nước loãng, bình nước sẽ không xanh thêm được chút gì. Phải có những giọt nước xanh thẫm và đúc lại mới làm cho bình nước xanh thêm một phần dù lớn dù nhỏ. Tác phẩm văn nghệ có một sự sống riêng, đậm đà hơn, mạnh mẽ hơn, kết tinh hơn sự sống thường thường của thực tại. Lời nói của nghệ sĩ có cháy một ngọn lửa rực sáng mới làm sáng thêm cuộc đời nhiều hay ít.
Tay mang những tác phẩm đến trước xã hội, nghệ sĩ muốn trình bày một cách sống mới với mọi người. Nhưng trong cuộc đời, cái sống với cái chết, cái đang nảy nở với cái đang suy tàn, cái mới với cái cũ nào có chia ranh giới, liền sát nhau, lồng vào nhau. Con đường thật và con đường giả đều lượn ngoằn ngoèo, luoonluoon chụm lại nhau thành những ngã năm ngã bảy.
Nghệ sĩ phải không lầm. Đóng khung mắt nhìn ở những cái ngay bây giờ thì chỉ thấy những mớ sự việc và cảm xúc hỗn độn, nhiều khi ngược với nhau, “thấy cây mà không thấy rừng”.
Nghệ sĩ phải nhìn đón trước được sự sống đang lay chuyển những người chung quanh. Trên khuôn mặt chàng thiếu niên mười lăm đang …
Nhìn đón trước chưa đủ, nghệ sĩ còn phải sống đón trước thời đại. Hiểu cuộc sống đang đi tới đâu chưa tạo ra được tác phẩm, sống “đón đầu” ngay những buồn vui, yêu ghét đang thành hình, cười được tiếng cười mới, bâng khuâng được cái mơ mộng mới, như nghe được bằng dôi mắt, đôi tai mới, bấy giờ nghệ sĩ mới sáng tác được. Nghệ sĩ phải “làm cho trông thấy nhỡ tiền” sự sống mới của con người đang nảy nở thực giữa cuộc đời.
Nghệ thuật hiện thực không phải sao chép lại thực tại bây giờ mà phải làm hiện lên ngày mai giữa ngày hôm nay. Tư tưởng báo trước cho chúng ta rằng ngày mai sắp đến, văn nghệ đưa ngay chúng ta vào ánh sáng ngày mai ấy.
Trong xã hội mấy nghìn năm nay cuộc sống lên hay xuống là trong khung khổ giai cấp. Giai cấp nọ tiếp giai cấp kia, lớp người này nối bước người khác, lần lwotj đứng lên, điều khiển cuộc sống của xã hội.
Một giai cấp mới nảy lên không bao giờ lớn mạnh ngay. Nó đem đến một cách sống mới còn non nớt giữa hoàn cnarh xã hội cũ còn đang vững chắc với những nếp sống lâu đời được xây dựng thành phong tục, tôn giáo, luân lý, luật pháp trùng điệp. Nhưng lớp người mới tuy nhỏ yếu mà đã nắm cả tương lai trong tay, lớp người cũ dù cố gắng níu lấy địa vị của nó, kỳ thực không còn bao nhiêu ngày nữa. Cuộc sống mới còn bé nhỏ,nhưng đã tràn đầy tiến lên. Cuộc sống cũ hoa vàng hoa bạc sáng choang nhưng đã khô cạn mạch máu. Người nghệ sĩ phải không lóa mắt vì ánh sáng vàng bạc rực rõ một lúc, mà phải biết tìm thấy sự sống mới đang lên theo những đường lối nhiều khi tối nhỏ quanh co. Văn nghệ hiện thực là văn nghệ của sự sống đang lên ấy.
Con người mới khi cảm xúc, suy nghĩ, hành động, đều vướng phải sự chống giữ đến cùng của phong tục, tôn giáo, luân lý, luật pháp của chế độ cũ. Lúc ấy công việc chính của văn nghệ hiện thực là phê bình. Trận đánh diễn ra dưới hình thức công phá. Văn nghệ hiện thực vạch ra bề trong suy tàn, khô khan của cuộc sống đang thịnh hành và làm cho mọi người khinh ghét cuộc sống ấy.
Nghệ sĩ của giai cấp cách mạng trong khi phá vỡ cuộc đời cũ, tìm được nhiều bạn đồng minh không ngờ. Trong nước Pháp tư sản cuối thế kỷ XIX, nhà tiểu thuyết Bandăc (Balzac) nói: “Tôi viết dưới ánh sáng hai chân lý vĩnh viễn là Thượng đế và nền quân chủ”. Vậy mà tác phẩm của ông đã được tất cả những người cách mạng truyền tay đón đọc. Ấy là vì Bandăc tuy chưa nhìn rõ thấy con đường đi tới của xã hội, nhưng nhà văn đã nhìn thấy và nói rõ những cái thối nát của cách sống tư sản của thời ông. Bandăc đã đanh kêu lên những tiếng coong coong của đồng xu nó nằm trên ngai vàng của xã hội và gia đình tư sản, cả trong đáy lòng của mỗi người tư sản ngay khi hắn đang còn ôm người yêu trong tay. Tình cảm của Bandăc còn muốn quay về đạo lý và tôn giáo phong kiến, nhưng cả con người Bandăc phẫn uất, không chịu ẩn mình vào khuôn khổ chết thối của xã hội tư sản chung quanh ông. Nên tuy không định trước, ông đã giúp vào mở đường cho cuộc sống mới của lớp người cách mạng.
Đến khi những tường nhà giam đã đổ xuống, lớp người cũ bị đánh ngã, lớp người mới đứng lên, nắm lấy việc điều khiển xã hội, xây dựng lại tất cả cuộc đời, lúc ấy nhiệm vụ văn nghệ hiện thực đổi khác hẳn. Đường đi mở rộng và trở nên khó khăn hơn. Trước kia kẻ địch là một bức tường tuy vững chắc nhưng đứng một chỗ cho bắn phá, ngày nay gạch đá bức tường cũ vụn nát dưới chân, trước mặt là cả cuộc sống không cố giới hạn, phải tiến vào, xây dựng lại tất cả, nhìn lại từng chiếc lá, từng viên gạch góc đường, nghe lại từng tiếng chim hót, tiếng búa đập lò, nói lại từng lời chào hỏi, kêu gọi hay chuyện trò. Trước kia kẻ địch là xiềng xích giam giữ, ngày nay kẻ địch là chính hai chân mình, chỉ lo quá yếu ớt. Bao nhiêu vấn đề vượt lên một bậc khác hẳn và hiện ra dưới một vẻ không ngờ. Cuộc sống ào ào không biết đưa tới những hướng nào, dòng sông kỳ thực vẫn có hướng đi lên, nhưng những đợt sóng khổng lồ lay động mặt nước che kín cả chân trời trước mặt nghệ sĩ. Cuộc đời trước kia vẫn ỳ ạch đằng sau sự mong mỏi và lý tưởng của con người, thì ngày nay người nghệ sĩ ba chân bốn cẳng chạy theo nó cho kịp còn nhọc, nói gì nhìn đón trước. Lúc ấy, nghệ thuật nếu không chứa đựng một sự sống mãnh liệt ít ra cũng ngang với sự sống chung quanh thì ném vào xã hội như chiếc lá tung ra trước trời bão. Nghệ sĩ, nếu không cháy trong lòng một ngọn lửa ít ra cũng sáng như ngọn lửa của những con người mới đang chiến đấu xây dựng, thì không sao tạo nổi các tác phẩm có thể soi đường đôi chút cho những người đang đi. Nghệ thuật mới đòi hỏi những nghệ sĩ mới.
Bây giờ lớp người đang lên cao sẽ tạo ra những nghệ sĩ của nó. Những nghệ sĩ cũ phải có sức thu nhận mầu nhiệm mới có thể tự đổi mới sự sống trong lòng cho kịp được với cuộc đời bên ngoài. Dù sao, sự sống mới phải có bàn tay khỏe khoắn mới đúc nặn nổi. Và trong lò đúc, vai trò chỉ huy vẫn là của những con người mới của giai cấp đang làm chủ lịch sử và xắn tay tạo ra cuộc đời thực. Văn nghệ lúc đó mới đến mùa nảy nở. Những tiếng phê bình vẫn còn, nhưng trở nên những tiếng phê bình để gìn giữ và giúp cho xây dựng. Nghệ sĩ chỉ trích những chỗ sai lệch, để mong giữ cho cuộc sống mới đi lên theo đường thẳng nhanh chóng hơn. Căm giận nhiều khi vẫn lên tiếng đối với những kẻ thù cuối cùng còn lại, nhưng yêu thương phấn khởi tin tưởng dào dạt trong cách nói, rồi tiếng gọi mới lạ của nó cất lên trong các tác phẩm lôi cuốn mọi người đi theo.
Bao nhiêu con người đã mang sẵn trong tâm hồn cách sống mới, nghe thấy tiếng gọi mới của nghệ thuật bỗng như bừng thức tỉnh, tự nhận thấy rõ tâm hồn mình và bấy giờ mới thực sự tìm thấy mình để càng bước mạnh lên cuộc đời mới. Bao nhiêu anh hùng tiềm tàng của cuộc đời, đón được tia luawr nhỏ bật lên từ đời sống những anh hùng trong sách mà bỗng thấy tâm hồn cháy sáng lên. Ngày khởi nghĩa, những bài hát cách mạng tự đâu truyền ra đã tràn khắp thành phố, lan về những vùng quê xa nhất. Ai quên được sự cảm động khi nghe những tiếng hát ấy lần đầu. Âm nhạc cách mạng đã thách thức bao nhiêu tâm hồn ở khắp hang cùng ngõ hẻm. Các bài hát ở nước ta đi bước thứ nhất, mở cho Bình dân học vụ đi bước thứ hai.
Văn nghệ khi bắt đúng mạch cuộc sống mới đang lên thì không còn là của riêng ai, nó đã thành của chung xã hội. Không thuyết giảng trừu tượng, không lý luận khô khan mà làm cho mọi tâm hồn rung động thẳng ngay những rung động mới, nên văn nghệ lay động được những lớp người vô cùng đông đảo khiến họ nói bằng những bài hát, lời thơ mới, thay đổi đến cả mắt nhìn của con người. Đến đây, văn nghệ biến thành một sức mạnh làm thay đổi được cách sống của xã hội.
Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003), một con người tài hoa, những sáng tác nghệ thuật gồm, văn, thơ, nhạc, họa, kịch nói… trên lĩnh vực nào ông cũng để lại những dấn ấn khó quên. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1941, sau năm 1943, ông hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc, phụ trách báo Độc lập, biên soạn tạp chí Tiên phong. Từng là đại biểu đi dự Quốc dân Đại hội Tại Tân Trào và được cử vào ỦY ban Giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn Đình Thi trở thành Tổng Thư ký Hội Văn hóa cứu quốc, ủy viên tiểu ban dự thảo Hiến pháp và ủy viên Ban Thường trực Quốc hội khóa I. Kháng chiến chống Pháp, ông tiếp tục hoạt động văn hóa phục vụ kháng chiến, trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch và sáng tác văn học. Là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam từ năm 1948. Sau kháng chiến chống Pháp, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Đình Thi giữ chức vụ Tổng Thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1957. Từ năm 1958, ông làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa I, II, III. Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật cho các tác phẩm: Thể loại truyện – tiểu thuyết có: Xung kích, Vỡ bờ, Vào lửa, Mặt trận trên cao; Thơ có: Người Chiến sĩ, Bài thơ Hắc Hải; Kịch có: Hoa và Ngần, Giấc mơ, Tiếng sóng, Người đàn bà hóa đá; Bút ký – Tiểu luận: Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết. |