Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 12/08/2010 21:27 (GMT+7)

Thực hiện sức mạnh mềm và chiến lược truyền bá đối ngoại của Trung Quốc

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khi Joseph S.Nye Jr, nguyên trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, học giả chính trị quốc tế nổi tiếng đưa ra khái niệm “Soft Power”, một số học giả nghiên cứu về quan hệ quốc tế và ngoại giao của Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu thảo luận toàn diện về định nghĩa, nguồn gốc, đặc tính, yếu tố, tầng thứ, phân loại, tác dụng của nó. Nhưng cho đến nay, trong giới học thuật vẫn tồn tại tranh luận khá lớn về nội hàm cơ bản của nó. Vì vậy, trong việc lựa chọn con đường nâng cao sức mạnh mềm của Trung Quốc, người ta cũng có nhiều cách nói khác nhau, rất khó đạt được sự đồng thuận, trong đó khác biệt lớn nhất là giữa học giả Diêm Học Thông với các học giả khác. Bởi vậy, bắt đầu từ phân tích biện chứng khái niệm, bài viết đưa ra một con đường làm rõ và hoà giải bất đồng, đồng thời cũng đưa ra những kiến giải của mình trong việc thực hiện sức mạnh mềm Trung Quốc.

1. Quyền lực mềm hay sức mạnh mềm?

Từ khi du nhập vào Trung Quốc đến nay, trước hết từ “Soft Power” phải đối diện với vấn đề phiên dịch, các học giả có nói khác nhau về nó. Hiện nay, trong giới học thuật, từ này có ba tên dịch bằng tiếng Trung: “quyền lực mềm”, “sức mạnh mềm” và “lực lượng mềm”. Các tên dịch này khó phân cao thấp về tần suất sử dụng và tình trạng sử dụng lẫn lộn vẫn chưa có gì thay đổi. Thực ra, cách dịch khác nhau từ “Soft Power” phản ánh trọng tâm lý giải và xu hướng tư duy khác nhau của người dịch. Tất nhiên, điều quan trọng nhất để xoá bỏ sự khác biệt trong việc dịch từ “Soft Power” là phải trở lại ngữ cảnh sử dụng ban đầu của nó.

Ban đầu, Nye định nghĩa “Soft Power” như sau: “Một nước khiến nước khác (tự nguyện) yêu cầu những thứ nước này muốn” mà không “ép buộc ra lệnh cho nước khác làm những việc mà nước này muốn”, “do nước khác đi theo, một nước có thể đạt được kết quả mà nó mong muốn” 1. Rõ ràng, ở đây Nye chỉ ra “Soft Power” là một sức ảnh hưởng, sức chi phối hoặc sức khống chế đặc thù, không mang tính cưỡng chế - là “lực hút (đồng hoá)” (co-optive power) 2, sức cảm hoá và kêu gọi (lây lan và cảm hoá), “sức hấp dẫn” (attraction), “sức thuyết phục” (persuasiveness) 3. Từ góp độ loại hình lực lượng, Nye đã giới hạn phạm vi của “Soft Power”, cho rằng sức mạnh gồm sức mạnh hành vi (behavioral power) và sức mạnh tài nguyên (resource power). Sức mạnh hành vi chỉ khả năng đạt được kết quả mong muốn, sức mạnh tài nguyên lại chỉ tài nguyên có được liên quan đến năng lực đạt được kết quả mong muốn. “Soft Power” và “Hard Power” cùng tồn tại, cùng thuộc về sức mạnh hành vi; trong đó, “Soft Power” chỉ năng lực đạt được kết quả bạn mong muốn trong khi người khác muốn, bạn cũng muốn 4. Ở đây, Nye đã giới hạn rõ ràng “Soft Power” là một loại năng lực hành vi – năng lực hành vi ảnh hưởng đến người khác, chứ không phải là sức mạnh tài nguyên và cũng không phải là tài nguyên hoặc chiếm hữu tài nguyên. Có thể thấy, Nye đã quy nạp “Soft Power” với tư cách là năng lực hành vi vào trong quan hệ tác dụng và bị tác dụng giữa người khác, khiến nó thuộc về phạm trù quan hệ, chứ không coi nó là vật chất (tài nguyên) hoặc là phạm trù thực thể để xem xét.

Trong xã hội học và chính trị học, “quyền lực” không phải là vật chất mà là một loại quan hệ mang tính áp lực không cân bằng, không ngang hàng, nó thuộc về phạm trù quan hệ; “sức mạnh” (thực lực) lại là vật chất mang tính thông thường, là một phạm trù thực thể. Rõ ràng, “quyền lực” và “sức mạnh” là hai khái niệm khác nhau, thuộc về hai phạm trù khác nhau. Theo đó, năng lực hành vi là quyền lực, có thể gọi là “quyền lực hành vi” (mà không thể nói là “sức mạnh hành vi”); năng lực tài nguyên là sức mạnh, có thể gọi là “sức mạnh tài nguyên” (mà không thể nói là “quyền lực tài nguyên”). Và “Soft Power” thuộc về năng lực hành vi, mà năng lực hành vi là quyền lực, tức là “quyền lực hành vi”, như vậy, nên diễn đạt “Soft Power” của Nye là “quyền lực mềm” để chỉ ra đặc tính quan hệ nó là năng lực hành vi. Nếu như dịch “Soft Power” thành “sức mạnh mềm”, rõ ràng đã hiểu sai chủ ý của Nye, sai là đã coi nó thành vật chất và thực thể, trong khí đó “sức mạnh mềm” lại thuộc về sức mạnh tài nguyên như Nye đã nói, nói một cách chính xác, nó thể hiện là thực lực tài nguyên tương quan với quyền lực mềm trong sức mạnh tài nguyên. Nó là “tài nguyên quyền lực vô hình” (power resource), tức là tài nguyên quyền lực mềm bao gồm “văn hoá, hình thái ý thức và chế độ” 5. Trên thực tế, Nye đã có sự phân biệt rạch ròi giữa quyền lực mềm và tài nguyên quyền lực mềm (tức là sức mạnh mềm). Vì vậy, ông đã có sự phân biệt giữa “sức hút (quyền lực mềm: lôi kéo nước khác tham gia vào) - khiến nước khác muốn cái bạn muốn – tài nguyên quyền lực mềm (soft power resource) - sức hấp dẫn văn hoá, hình thái ý thức và chế độ quốc tế.”

Trên cơ sở phân biệt phạm trù quyền lực (hành vi/sức mạnh (tài nguyên), Nye lần lượt phân biệt quyền lực cứng/mềm và sức mạnh cứng/mềm. Cũng có thể nói, so với phân chia giữa cứng và mềm (quyền lực hoặc sức mạnh), phân chia giữa quyền lực và sức mạnh căn bản hơn. Do đó, sức mạnh cứng đối ứng với quyền lực mềm. Trên cơ sở “quyền lực mềm” và “sức mạnh mềm” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, thuộc về phạm trù khác nhau, nên dịch “Soft Power” thuộc “sức mạnh hành vi” là quyền lực mềm”; còn dịch “Soft Power” về ý nghĩa “sức mạnh tài nguyên” là “sức mạnh mềm”. Chúng ta có thể tham khảo tình huống và ngữ cảnh khác nhau của từ “Soft Power”, xác định một cách cụ thể thuộc phạm trù của nó để có tên dịch tương ứng. Đương nhiên, nếu như “Soft Power” thoát khỏi ngữ cảnh nhất định, khó có thể phân biệt sức mạnh hành vi hay là sức mạnh tài nguyên, chi bằng dịch nó là “lực lượng mềm” một cách chung chung mơ hồ.

Quả thực, cho dù từ lý luận hay từ giá trị, là một học giả chính trị học quốc tế coi Mỹ là nền tảng và bản thân trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nye quan tâm nhiều hơn đến quan hệ quyền lực bất đối xứng của ảnh hưởng và bị ảnh hưởng trong tác động lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới, mà không chỉ giới hạn ở sự nhiều ít của tài nguyên, lớn nhỏ của thực lực tự thân trong nội bộ một nước.. Do đó, sức mạnh mà ông lý giải là loại hình hướng ngoại, là chỉ sức ảnh hưởng đối ngoại. Nó đã phát huy tác dụng giữa các quốc gia và tạo thành quyền lực (quan hệ) nào đó. Nó không phải là nội khuynh và không phải một loại thực lực và tiềm lực nội tại. Liên hệ đến các ngữ cảnh sử dụng này, rõ ràng “Soft Power” mà Nye đã nói chính là “quyền lực mềm”. Từ ý nghĩa này có thể nói, Nye là một học giả về “quyền lực mềm” chứ không phải học giả “sức mạnh mềm” như chúng ta thường nói.

Hiện nay, hiện tượng dùng lẫn lộn từ “quyền lực mềm” và “sức mạnh mềm” phổ biến trong giới học giả trong nước nghiên cứu về quan hệ quốc tế và ngoại giao. Các học giả thường tuỳ ý sử dụng hai khái niệm này, không phân biệt rạch ròi giữa hai từ, hoặc đương nhiên coi hai từ là một. Đã có học giả ý thức được sự khác biệt giữa hai từ và thử phân biệt khi sử dụng, nhưng cũng không tìm được căn cứ rõ ràng nào để phân biệt triệt để.

Hai từ “quyền lực mềm” và “sức mạnh mềm” bị sử dụng lẫn lộn với nhau. Ví dụ, chỗ nên dùng “quyền lực mềm thì sử dụng “sức mạnh mềm”, khi nói đến “sức hấp dẫn” và “sức động viên” của một nước, rõ ràng đề cập đến quyền lực hành vi, nhưng lại sử dụng từ “sức mạnh mềm”, dẫn đến xuất hiện kết luận mâu thuẫn như sau: “Nye định nghĩa ‘sức mạnh mềm’ là quyền lực đồng hoá khi một quốc gia khiến quốc gia khác coi mục tiêu mong muốn là mục tiêu ‘’ 7. Ngược lại, chỗ nên là “sức mạnh mềm” lại sử dụng “quyền lực mềm”. như khi nói đến tài nguyên văn hoá của một nước, rõ ràng đề cập đến sức mạnh tài nguyên. Nhưng lại sử dụng từ “quyền lực mềm”, từ đó đã xuất hiện thuật ngữ chứa đựng mâu thuẫn “quyền lực mềm hoá”.

2. -Sức mạnh mềm văn hoá-: Sức mạnh mềm chính là văn hoá

Một nguyên nhân quan trọng khiến giới học thuật trong nước luôn mơ hồ khái niệm trong tiền đề nghiên cứu lực lượng mềm là khi lý giải nội hàm của “Soft Power”, các học giả đã chuyên tâm vào phân biệt giữa nó với “Hard Power”, tức giữa “mềm” và “cứng” của “Power” mà quên mất tính phức tạp và tính tỉ mỉ của nội hàm bản thân “Power”. Coi nhẹ đối với nội hàm của “Power” đã trở thành căn nguyên của sự khác biệt trong lý giải nội hàm của “Soft Power”

Trong khi trình bày về nội hàm cơ bản của “Soft Power” hiện nay, giới học thuật trong nước cơ bản chia làm hai phái gồm phái nhấn mạnh yếu tố văn hoá, tức yếu tố tố quan niệm (quan niệm giá trị, tư tưởng, tinh thần hoặc nguyên tắc) và phải nhấn mạnh yếu tố chính trị, tức là vận dụng chính sách (chế độ, chiến lược, hoặc quy tắc) (có thể nên gọi là “phái văn hoá” và “phái chính trị”). Phái trước coi văn hoá làm nền tảng, chỉ ra chính trị vận hành dưới bối cảnh văn hoá nhất định, vận hành dưới sự chỉ đạo của quan niệm giá trị văn hoá, nhấn mạnh tác dụng định hướng của văn hoá đối với vận hành chính trị. Phái sau coi chính trị làm nền tảng, chỉ rõ tài nguyên văn hoá cần vận dụng chính trị, thể hiện giá trị của nó trong vận dụng chính trị, nhấn mạnh chức năng thực hiện của chính trị đối với tài nguyên văn hoá 8. Rất nhiều học giả có thể thuộc phái văn hoá 9, còn Diêm Học Thông lại là đại biểu của phái chính trị 10.

Thực ra, từ góc độ phân loại phạm trù thì văn hoá mà phái văn hoá nói đến và chính trị mà phái chính trị nói đến thuộc về phạm trù khác nhau. Văn hoá là một hệ thống quan niệm giá trị, nó chỉ một hệ thống ý nghĩa phù hiệu cùng hưởng, truyền lại cho nhau của nhân dân dưới không gian, thời gian nhất định. Nó quan tâm đến thực tại trừu tượng, vì thế, nó thuộc về phạm trù thực thể. Chính trị là hành vi thao tác tài nguyên, nó chỉ việc phân phối tài nguyên dựa vào một xu hướng giá trị nào đó. Nó quan tâm đến quan hệ (thường là quan hệ quyền lực không ngang bằng), vì thế, nó thuộc phạm trù quan hệ. Nói một cách khái quát, văn hoá là một loại tài nguyên, là sức mạnh tài nguyên, do đó có cách nói “sức mạnh văn hoá”; còn chính trị là một loại hành vi, là quyền lực hành vi, do đó có cách nói ”quyền lực chính trị”. Có thể thấy, tranh luận giữa phái văn hoá và phái chính trị không phải được triển khai dưới phạm trù đồng nhất. Điều mà phái chính trị đã thảo luận nghiên cứu không phải là bản thân sức mạnh mềm, mà là vận dụng sức mạnh mềm. Nói sự tranh luận giữa hai phái là cuộc tranh luận về nội hàm của sức mạnh mềm không chính xác bằng nói đó là cuộc tranh luận giữa (văn hoá) sức mạnh mềm với sự vận dụng của sức mạnh mềm, tức là (chính trị) quyền lực. Nói một cách nghiêm túc, tranh luận có liên quan đến nội hàm của sức mạnh mềm không có hiệu quả.

Diêm Học Thông, đại diện của phái chính trị nghiên cứu về sức mạnh mềm, đã định nghĩa sức mạnh mềm là “tổng hoà của sức hấp dẫn quốc tế, sức động viên quốc tế và sức động viên trong nước của chính phủ một nước”, quy chính trị như sức động viên là sức mạnh mềm và là hạt nhân của sức mạnh mềm, gọi nó là “sức mạnh chính trị”. Trong nghiên cứu định lượng, sức động viên trở thành một trong những yếu tố cấu thành chỉ tiêu đanh giá sức mạnh mềm mà ông xây dựng 11. Có thể thấy, Diêm Học Thông luôn nói đến chính trị phi thực thể dưới phạm trù thực thể, gộp lẫn làm một khi nói về chính trị và văn hoá vốn thuộc về phạm trù quan hệ và phạm trù thực thể. Đương nhiên, ông cũng thừa nhận giữa chính trị và văn hoá có sự khác biệt lớn, vì thế gọi văn hoá là “sức mạnh mang tính tài nguyên:, gọi chính trị là “sức mạnh mang tính thao tác”. VÌ vậy, ông đã phân biệt sức mạnh tài nguyên và sức mạnh hành vi giống như Nye, nhưng sự phân biệt của ông có hạn, là sự phân biệt trong một phạm trù thống nhất (phạm trù thực thể). Chính trị, loại quyền lực mang tính thao tác hoặc tính hành vi vốn thuộc phạm trù quan hệ bị coi là một sức mạnh khác cùng tồn tại song song với văn hoá, loại sức mạnh mang tính tài nguyên.

Thông qua phân tích trên, có thể kết luận: chính trị không thuộc về sức mạnh, không phải là yếu tố cấu thành sức mạnh mềm, yếu tố cấu thành duy nhất của sức mạnh mềm là văn hoá, còn không có sức mạnh mềm khác. Khi giới định tài nguyên quyền lực mềm (tức sức mạnh mềm), Nye đã đưa ra các yếu tố như văn hoá, hình thái ý thức và chế độ. Chắc chắn, những yếu tố sức mạnh mềm này đều có thể quy về văn hoá. Nói tóm lại, văn hoá ông nói đến bao gồm hai tầng diện và hai hình thái: một là tầng diện quan niệm ẩn chứa bên trong, nó bao gồm quan niệm giá trị, phương thức tư duy, quan niệm lý luận tư tưởng, tinh thần hoặc nguyên tắc, có thể gọi chúng là văn hoá mang tính quan niệm. Hai là, tầng diện chế độ thể hiện bên ngoài, tầng diện này thuộc loại ước định văn hoá mang tính xã hội, thực hiện xã hội hoá văn hoá, biểu hiện của nó là chiến lược, chính sách hoặc quy phạm, quy tắc, có thể gọi chúng là văn hoá mang tính chế độ. Trong hai loại văn hoá này, nói chúng văn hoá mang tính quan niệm, căn bản hơn văn hoá mang tính chế độ, văn hoá mang tính quan niệm mang tính nguyên sinh, văn hoá mang tính chế độ mang tính diễn sinh. Có thể nói, cái trước là nguồn, cái sau là dòng chảy; cái trước là thể cái sau là dụng. Nhưng hai loại văn hoá này đều thuộc sức mạnh tài nguyên, chúng vừa không có tính uy hiếp, vừa không có tính báo đáp, chỉ là tính mê hoặc, đều là sức mạnh tài nguyên.

Đương nhiên, trong quan hệ quốc tế, trong môi trường chính trị quốc tế, sức mạnh mềm hay sức mạnh mềm văn hoá phần lớn thể hiện là văn hoá mang tính chế độ. Khi nói đến sức mạnh mềm (tài nguyên quyền lực mềm) của Mỹ, ngoài lưu hành văn hoá Mỹ, Nye thường đề cập chế độ của Mỹ, bao gồm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, ví dụ, ông coi chế độ Mỹ thể hiện chủ nghĩa tự do và nguyên tắc thị trường tự do, khống chế kinh tế quốc tế là cội nguồn hàng đầu của sức mạnh Mỹ. 12

3. Thực hiện sức mạnh mềm Trung Quốc: quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá

Nếu như giới học thuật không đạt được sự nhất trí về nội hàm cơ bản của sức mạnh mềm, thì sẽ dẫn đến khác biệt trong lựa chọn con đường xây dựng sức mạnh mềm. Sự lý giải khác nhau đối với nội hàm cơ bản về sức mạnh mềm của hai phái học giả đã quyết định sự lựa chọn con đường nâng cao sức mạnh mềm khác nhau. Phái trước đi theo con đường văn hoá, nghiêng về đầu tư vào văn hoá, coi xây dựng hệ thống quan niệm giá trị văn hoá hạt nhân, nâng cao sức hấp dẫn của văn hoá là phương hướng chính để nâng cao sức mạnh mềm của Trung Quốc. Phái sau lại đi theo con đường chính trị, nghiêng về đầu tư vào chính trị, coi điều chỉnh chiến lược và chính sách đối ngoại, phát triển quan hệ hữu nghị chiến lược với nhiều quốc gia là sách lược chủ yếu nhằm tăng cường lực lượng mềm của Trung Quốc 13. Sự khác biệt liên quan đến tính chất sức mạnh mềm của hai phái này vượt xa sự khác biệt về trình độ của sức mạnh mềm, sẽ dẫn đến hậu quả nhất định trong thực tiễn ngoại giao. Dễ dàng tưởng tượng, nếu như trên cơ sở lý giải lệch lạc về nội hàm cơ bản sức mạnh mềm để dẫn đến thiên lệch trong lựa chọn con đường nâng cao sức mạnh mềm, như vậy sẽ không thể có trợ giúp lý luận khoa học và tham khảo quyết sách hợp lý cho việc đưa ra chiến lược nâng cao sức mạnh mềm của nước ta, từ đó làm mất đi tính hiệu quả của kiến nghị chính sách.

Do hiểu sai chính trị hoá (quyền lực hoá) đối với sức mạnh mềm, cộng với thái độ chủ nghĩa hư vô đối với truyền thống văn hoá Trung Quốc, trong con đường lựa chọn nâng cao lực lượng mềm trên thực tế, Diêm Học Thông đại diện của phái chính trị đã đi vào ngõ cụt. Ông coi quan hệ chiến lược hữu hảo trong sức động viên quốc tế, tức là tăng cường số lượng đồng minh quân sự làm đột phá khẩu, vì thế đề ra đối sách điều chỉnh chính sách (không liên kết). Nào ngờ, lịch sử đã chứng minh, số lượng nước đồng minh chiến lược của một nước đã giống sự lớn nhỏ trong quyền chế định quy tắc quốc tế, về căn bản không phải chiến lược, chính sách liên quan của nước này quyết định, mà là sức mạnh cứng như sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế quyết định. Trên thực tế, tăng cường và nâng cao sức mạnh mềm-cho dù là chiến lược và chính sách của văn hoá mang tính chế độ-đã hỏng trong tầm nhìn của Diêm Học Thông.

Qua phân tích ở trên, chúng ta có thể khẳng định, sức mạnh mềm chính là sức mạnh mềm văn hoá. Vì thế tăng cường và nâng cao sức mạnh mềm chính là tăng cường và nâng cao sức mạnh mềm văn hoá. Vấn đề hiện tại là phải làm thế nào để tăng cường sức mạnh mềm văn hoá của đất nước?

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, ý nghĩa của sức mạnh tài nguyên quốc gia (bao gồm sức mạnh mềm) mang tính quan hệ quốc tế, giá trị của nó thể hiện thông qua quan hệ quyền lực bất bình đẳng trong sự tắc động lẫn nhau giữa các nước, có nghĩa là, giá trị của sức mạnh tài nguyên không phải ở chỗ bản thân mình nắm giữ, mà ở tác dụng đối ngoại. Có thể thấy, đánh giá thực lực của một nước không phải chỉ nhìn vào số lượng tài nguyên, mà còn phải nhìn vào chất lượng của nó, xem xét phạm vi và mức độ ảnh hưởng của nó đối với các nước khác.

Đương nhiên, tài nguyên hoặc bản thân chiếm hữu tài nguyên tuy không ngang hàng với năng lực hành vi, nhưng tài nguyên hoặc chiếm hữu tài nguyên là cơ sở của năng lực hành vi, quyết định năng lực hành vi. Theo lý giải của chủ nghĩa hiện thực, quyền lực bắt nguồn từ sức mạnh (thực lực), trên cơ sở sức mạnh; sức mạnh là nguồn gốc, cơ sở và chỗ dựa cua quyền lực. Vì vậy, sức mạnh quốc gia quyết định quyền lực của quốc gia, sức mạnh của một nước càng lớn, quyền lực của nó đối với nước khác hoặc trong xã hội quốc tế càng lớn. Cũng như vậy, sức mạnh mềm của một nước càng mạnh, thì sức mạnh mềm đối ngoại của nó càng lớn. Trong xã hội quốc tế, là một sức mạnh hành vi ảnh hưởng đến nước khác với phương thức đặc thù (phi cưỡng chế), “quyền lực mềm” của một nước cần dựa vào vận dụng tài nguyên quyền lực mềm-sức mạnh mềm mới đạt được. Chính trong ý nghĩa này, Nye đã chỉ ra: là một loại sức hấp dẫn, sức mạnh mềm chính là “năng lực hấp dẫn đối phương thông qua sức hấp dẫn kỳ lạ của văn hoá và hình thái ý thức” 11. Đối với một nước, trong bối cảnh quốc tế và điều kiện lịch sử nhất định, nó là một loại tài nguyên văn hoá thực thể đã định, và lượng của sức mạnh văn hoá (tức sức mạnh mềm) là nhất định. Vì thế, mấu chốt của vấn đề sức mạnh mềm không phải ở chỗ có thể tăng cường hoặc nâng cao, mà là ở chỗ phát huy sức mạnh hiện có với tư cách là tiềm năng, thực thi ảnh hưởng và tác dụng chi phối đối với nước đối tượng hoặc nước mục tiêu một cách thực tế như thế nào. Do đó, sức mạnh chuyển từ trạng thái tiềm ẩn sang trạng thái thực tại, chuyển hoá thành quyền lực hiện thực. Đây chính là quá trình quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá hay chính là quá trình quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá.

Văn hoá của một nước chỉ có thể trở thành một loại quyền lực mềm khi nó được truyền bá rộng rãi và công nhận phổ biến trong xã hội quốc tế. Vì vậy, truyền bá là mấu chốt để thực hiện chuyển hoá từ sức mạnh (mềm) thành quyền lực (mềm) tức sức mạnh mềm văn hoá. Thông qua truyền bá văn hoá mới có sức ảnh hưởng, mới được đối tượng công nhận. Quá trình được đối tượng công nhận và tiến đến đồng hoá đối tượng là biểu trưng duy nhất của quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá. Đối với một nước, quá trình quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá chính là quá trình truyền bá đối ngoại của văn hoá.

Ở đây, nên vận dụng phạm vi phương thức của chủ nghĩa kết cấu trong lý luận quan hệ quốc tế để lý giải hiện tượng quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá, từ đó, xác lập chiến lược truyền bá đối ngoại thực hiện sức mạnh mềm Trung Quốc, mở ra con đường quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá dân tộc Trung Hoa. Căn cứ vào lý giải của lý luận chủ nghĩa kết cấu, đối với một quốc gia, mục tiêu chiến lược của truyền bá văn hoá đối ngoại phải là tạo ra và cung cấp “quan niệm (văn hoá) chung”, từ đó, dẫn dắt và quy phạm các quốc gia liên quan xác lập tư cách quốc gia của nó, xây dựng quốc gia của nó theo hướng tốt, định nghĩa lợi ích quốc gia của nó (bao gồm an ninh quốc gia), chi phối hành vi quốc gia của nó, cuối cùng đạt được mục đích ảnh hưởng và khống chế mục tiêu về quan niệm văn hoá. Từ đây cho thấy, quyền lực hoá sức mạnh mềm văn hoá chính là cộng đồng hoá. Vì vậy, truyền thông đại chúng của một nước cần phải tích cực thông qua truyền bá đối ngoại để thúc đẩy văn hoá dân tộc mình (cái gọi là “quan niệm tư hữu”) được xã hội quốc tế tiếp nhận và công nhận, từ đó khiến nó được nâng lên và chuyển hoá thành văn hoá quốc tế, thậm chí là văn hoá thế giới được các nước liên quan cùng công nhận, tức là quan niệm chung. Một khi những quan niệm chung này được các nước liên quan công nhận, thì có thể dùng để đồng hoá quan niệm tư tưởng của đối phương để đi đến quy định và chi phối hành vi nhà nước của đối phương.

Là nước đang phát triển lớn nhất, Trung Quốc đang “hội nhập mang tính sáng tạo” (hay nói cách khác “hội nhập mang tính lựa chọn”) vào xã hội quốc tế. Cùng với việc tham gia, học tập và tiếp nhận các chế độ quốc tế, chúng ta có nghĩa vụ đem đến cho quốc tế “sản phẩm công cộng” (public goods), có cống hiến quốc tế, qua đó thể hiện đầy đủ hình tượng của một nước lớn có trách nhiệm (accountable). Hơn nữa, là một quốc gia có truyền thống văn hoá lâu đời và rực rỡ, những sản phẩm công cộng chúng ta có thể đem đến cho thế giới không phải là tài nguyên vật chất, mà là tài nguyên văn hoá (bao gồm văn hoá mang tính quan niệm và văn hoá mang tính chế độ). Đương nhiên, văn hoá truyền bá đối ngoại của chúng ta là có lựa chọn, nó vừa phải có đặc tính dân tộc, lại vừa có tính thích ứng phổ biến với thế giới, hơn thế, loại văn hoá này phải là “loại hình hữu nghị”, “loại hình hợp tác”, không mang tính cạnh tranh và tính đối kháng.

Vì vậy, Trung Quốc cần phải tăng cường xây dựng hệ thống giá trị văn hoá lấy “hoà” làm hạt nhân, tích cực suy nghĩ nhu cầu đối với sức mạnh mềm Trung Quốc và yêu cầu trong việc vận dụng sức mạnh mềm đối với Trung Quốc của thế giới, phát huy hết mức nguồn nhân lực và thông tin truyền bá đại chúng để đưa quan niệm lý luận “thế giới hài hoà” đến các nơi trên thế giới, khiến nó trở thành quan niệm văn hoá được xã hội quốc tế chấp nhận phổ biến. Hiện nay, Trung Quốc nên đặt mục tiêu chiến lược truyền bá đối ngoại văn hoá ở các nước đang phát triển, thông qua các kênh, truyền bá đến các nước này mô hình phát triển kinh tế Trung Quốc-“Nhận thức chung Bắc Kinh” (Beijing Consensus) có sức hấp dẫn quốc tế nhất, từ đó ảnh hưởng một cách hiệu quả đến sự lựa chọn mô hình phát triển của những quốc gia này và cùng nhau xây dựng một thế giới hài hoà.

Chú thích:

1 Joseph Nye “Soft Power” Foreign Policy, Fall 1990,. 166

2 Joseph Nye “Soft Power” Foreign Policy, Fall 1990,. 166

3 Robert Keohane and Joseph S. Nye, “Power and Interdependence in the Information Age”, Foreign Affairs, Sep./ Oct. 1998, p.86

4 Robert Keohane dan Joseph S. Nye. “Power and Inderpendence in the Information Age’” Foreign Affair, Sep./Oct. 1998, p.86.

5 Jooseph Nye, “Soft Power, “Foreign Policy, Fall 1990, p.167.

6 Joseph Nye, Soft Power, “Forign Policy, Fall 1990, p.167.

7 Diêm Học Thông, Từ Tiến: “So sánh sức mạnh mềm Trung Mỹ”, “Quan hệ quốc tế hiện đại” năm 2008, kỳ 1, tr.26

8 Dư Tân Thiên: “Xây dựng sức mạnh mềm và chiến lược đối ngoại Trung Quốc:, “Nghiên cứu vấn đề quốc tế”, năm 2008 kỳ 2, tr.16

9 Lục Cương: “Sức mạnh văn hoá yếu làm Trung Quốc mất điểm” “thời báo toàn cầu” ngày 19 tháng 6 năm 2007.

10 Diêm Học Thông: “Hạt nhân của sức mạnh mềm là sức mạnh chính trị”, “Thời báo toàn cầu”, ngày 22 tháng 5 năm 2007; “Tài nguyên văn hoá cần vận dụng chính trị” ,”Thời báo toàn cầu”, ngày 2 tháng 8 năm 2007

11 Diêm Học Thông, Dư Tiến: “So sánh sức mạnh mềm Trung Mỹ”, “Quan hệ quốc tế hiện đại” năm 2008, kỳ 1, tr.26

12 Joseph Nye, “Soft Power,” Foreign Policy, Fall 1990, p.168

13 Dư Tân Thiên: “Xây dựng sức mạnh mềm và chiến lược đối ngoại Trung Quốc:, “Nghiên cứu vấn đề quốc tế”, năm 2008 kỳ 2; Diêm Học Thông, Từ Tiến: “So sánh sức mạnh mềm Trung Mỹ”, “Quan hệ quốc tế hiện đại”, kỳ 1 nưm 2008.

14 Joseph Nye, “Refining the National Interest,” Foreign Affairs, July/August, 1999, p.24

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.