Thống kê khoa học và công nghệ phục vụ quản lý khoa học và công nghệ
Thống kê KH&CN là một lĩnh vực của thống kê học, nghiên cứu hệ thống các khái niệm, phương pháp luận cơ bản để thu thập, xử lý, phân tích những dữ liệu về các nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực tài chính, nguồn lực thông tin, cơ cấu hệ thống tổ chức KH&CN, nội dung, cơ cấu các hoạt động KH&CN của quốc gia.
Sự cần thiết và vai trò của thống kê KH&CN
Hoạt động KH&CN là một loại hình hoạt động phức tạp, đa ngành, đa lĩnh vực. Để đánh giá hoạt động này, thống kê KH&CN được sử dụng như là một công cụ quan trọng. Hoạt động thống kê KH&CN là hoạt động không thể thiếu được trong công tác phát triển KH&CN. Vì vậy, ngày 29/3/2006,Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/2006/NĐ-CP về thống kê KH&CN quy định việc cung cấp, thu thập, xử lý, công bố và sử dụng thông tin thống kê KH&CN, phát triển công tác thống kê KH&CN trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước về KH&CN, thống kê có mặt trong tất cả các công đoạn. Số liệu thống kê KH&CN góp phần nâng cao nhận thức về KH&CN, nhìn nhận một cách khách quan, khoa học và hiệu quả về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Số liệu thống kê phục vụ công tác hoạch định quy hoạch phát triển KH&CN; công tác xây dựng kế hoạch phát triển KH&CN; cũng như góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh, bổ sung hay ban hành mới các cơ chế, chính sách nhằm phát triển KH&CN một cách hiệu quả, bền vững. Thống kê KH&CN giúp cho quá trình tổ chức, giám sát các hoạt động KH&CN một cách chính xác…, Ngoài ra, trong công tác tổng kết, đánh gia hoạt động KH&CN hàng năm, 5 năm, kết quả công tác thống kê KH&CN phục vụ việc đánh giá, phân tích tình hình triển khai thực hiện kế hoạch; đánh giá về hiệu quả của các hoạt động; nhận xét xu thế phát triển để có những đề xuất, kiến nghị phù hợp góp phần hoạch định sự phát triển cho thời gian tới.
Ngoài phục vụ quản lý KH&CN, thống kê khoa học còn:
- Tăng cường sự gắn kết giữa KH&CN, GD&ĐT với sản xuất kinh doanh bằng việc xây dựng những cơ chế, công cụ và phân tích thông tin thu thập được, thống kê KH&CN đã giúp công tác quản lý nắm bắt, quan sát và đánh giá về mối liên kết này, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Góp phần thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước:
Các chỉ tiêu KH&CN quốc gia đã phản ánh được thực trạng năng lực công nghệ, năng lực đổi mới của nền kinh tế, năng lực và xu thế đang phát triển của các lĩnh vực KH&CN, góp phần đánh giá đúng về tình trạng, xu thế phát triển của nền kinh tế, để có những quyết sách phù hợp ở tầng vĩ mô hỗ trợ nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và bền vững, góp phần thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Một số minh họa ứng dụng kết quả hoạt động thống kê KH&CN phục vụ quản lý KH&CN
Phát triển hệ thống tổ chức KH&CN:
Theo số liệu thực tế, hiện nay cả nước có 2.949 tổ chức KH&CN. Trong đó, 2.387 thuộc khu vực Nhà nước và 562 thuộc khu vực tập thể và tư nhân. Trong 2.949 tổ chức KH&CN, có 1.6684 tổ chức thuộc các tỉnh, thành phố. Bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 29 tổ chức KH&CN, trong đó khu vực nông nghiệp có 8 tổ chức, y tế có 8 tổ chức, tài nguyên và môi trường có khoảng 5, khoa học và công nghệ có 3-4,… Điều đó cho thấy cần có định hướng đầu tư phát triển mạnh các tổ chức KH&CN cho phù hợp với xu hướng phát triển chung.
Với số liệu thống kê đầy đủ, định kỳ các nhà quản lý có thể nhìn thấy được xu thế phát triển của các loại hình tổ chức, góp phần hình thành định hướng phát triển hệ thống tổ chức KH&CN của quốc gia.
Phục vụ phát triển nhân lực KH&CN:
Theo số liệu thống kê, tỷ lệ nhân lực có trình độ cao đẳng và đại học nước ta là không cao (5,7% dân số). Tỷ lệ này ở thành phố là 14% ở nông thôn là 2,5%.
Cơ cấu phân bố lao động và tỷ lệ lao động có trình độ đại học giữa các vùng không đồng đều, có nhiều bất cập.
Bình quân số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trên vạn dân ở các vùng; cũng như tỷ lệ lực lượng có trình độ tiến sĩ trở lên ở các vùng rất khác nhau, có sự khác biệt rất lớn giữa thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Đội ngũ cán bộ quản lý KH&CN tại các Sở KH&CN có cơ cấu trình độ: 7% trên đại học, 63% cao đẳng, đại học, còn lại 30% có trình độ trung cấp trở xuống.
Bình quân số cán bộ của các sở KH&CN cũng không đồng đều, mỗi vùng địa-kinh tế một khác,…
Trên cơ sở số liệu thống kê, các nhà quản lý sẽ hoạch định chính sách cho phù hợp, cân bằng giữa các vùng.
Phục vụ phát triển hệ thống các Trung tâm ứng dụng KH&CN, Chi cục Tiêu chuẩn, Đo lường,Chất lượng:
Hiện nay cả nước có 62 Trung tâm ứng dụng KH&CN (tỉnh Tuyên Quang và Khánh Hòa chưa có Trung tâm ƯD KH&CN) và 63 Chi cục Tiêu chuẩn, Đo lường, Chất lượng. Quá trình hình thành cũng như hiện trạng cơ sở vật chất của các Trung tâm và Chi cục qua thống kê cho thấy các tổ chức này chưa được quan tâm đầu tư đúng mức để có thể đáp ứng được các yêu cầu đặt ra về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật , đưa kết quả KH&CN vào với cuộc sống sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường.
Phục vụ công tác xây dựng kế hoạch KH&CN:
Ví dụ, qua số liệu thống kê, năm 2008, cả nước dành bình quân đầu người khoảng 26.500đ từ ngân sách nhà nước giao quyền chủ động cho lãnh đạo các tỉnh, thành phố chi tiêu để phát triển sự nghiệp KH&CN ở địa phương mình. Riêng kinh phí sự nghiệp khoa học bình quân đầu người khoảng 11.380đ. Kinh phí sự nghiệp khoa học phân bổ cho các tỉnh, nếu tính theo bình quân dân số, tỉnh cao nhất rất không đồng đều; tỉnh cao nhất là 25.480đ, tỉnh thấp nhất là 4.120đ (khoảng cách gần 6 lần). Sau khi Bộ KH&CN và Bộ Tài chính điều chỉnh, năm 2010, khoảng cách giữa số kinh phí sự nghiệp khoa học bình quân đầu người của tỉnh cao nhất và thấp nhất rút xuống còn 4 lần. Và từ năm 2011, nhà nước thống nhất kinh phí sự nghiệp khoa học phân bổ cho các tỉnh căn cứ trên 3 tiêu chí: dân số, quy mô kinh tế và thực lực KH&CN (số tổ chức, số cán bộ KH&CN).
Kết luận
Với số liệu thống kê thu thập được, các nhà quản lý sẽ có những bức tranh về thực trạng hoạt động KH&CN cả nước về tổ chức, nhân lực, khả năng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật… Qua số liệu đó, so sánh giữa các vùng, các địa phương với nhau, để có thể xem xét thực trạng các khía cạnh yếu, mạnh, hợp lý hay bất hợp lý trong cơ cấu tổ chức, năng lực, chất lượng, hiệu quả của từng địa phương. Trên cơ sở đó góp phần dần dần điều chỉnh bằng chính sách, hoặc bằng các quyết định về kế hoạch, quy hoạch, về chủ trương đầu tư để tạo sự phát triển một cách hiệu quả và bền vững.
Thống kê KH&CN là một công cụ quan trọng không thể thiếu được của hệ thống chính sách KH&CN quốc gia. Để khẳng định được vai trò này đòi hỏi công tác thống kê KH&CN phải được chính thức hóa và tổ chức một cách năng động, luôn có khả năng thiết lập những hệ thông tin đầy đủ, đủ tin cậy, kịp thời phục vụ nhu cầu của cộng đồng giới KH&CN, xã hội, các nhà lập chính sách,… Chính thức hóa ở đây được hiểu là chức năng thống kê KH&CN phải được thực hiện dưới dạng một tổ chức gắn liền với cơ quan ra quyết sách về KH&CN quốc gia nhằm thường xuyên đáp ứng, trước mắt, những nhu cầu cơ bản của cơ quan chính sách này, cũng như đáp ứng những nhu cầu về thông tin quản lý KH&CN của cộng đồng các nhà khoa học, các nhà quản lý và cả toàn xã hội./.