Thiết kế và xây dựng trại nuôi tôm
Với hệ thống bơm và mương dẫn nước nội bộ, trong đó mương dẫn nước nội bộ phải tránh xa các kênh nước thải. Vị trí mương nội bộ tuỳ thuộc vào dòng chảy nước trong trại. Bơm và mương dẫn nước cần đủ lớn để có thể lấy nước đầy vào khu dự trữ nước trong khoảng 6 giờ hoặc trong thời gian một con nước thuỷ triều. Để có được chất lượng nguồn nước cấp tốt nhất, vị trí của cống lấy nước phải lấy được nước ở ngay giữa luồng nước cấp.Vị trí cống cấp phải có hệ thống kiểm soát bằng lưới với kích cỡ lỗ 1mm và lưới chận này dễ bị tắc nghẽn rất nhanh, vì vậy cần vệ sinh chúng thường xuyên.
Khu dự trữ nước là nơi luôn có ích để kiểm soát môi trường ao nuôi. Vì thế ở những vùng mà chất lượng nước không đồng nhất hoặc nơi có nguồn nước cấp gián đoạn như những nơi có biên độ thuỷ triều thấp là điều đặc biệt quan trọng. Khu dự trữ nước còn có tác dụng như một hệ thống lọc sinh học trong việc cải thiện chất lượng nguồn nước. Khu dự trữ nước cần có tỷ lệ khoảng 30% tổng diện tích cho nuôi tôm và cần có cống thoát nước thải riêng biệt. Trong những vùng mà nguồn nước có nhiều chất lơ lửng thì khu dự trữ nước cần có thêm các bờ bao hoặc bờ có dạng xoắn ốc để gia tăng thời gian nước chảy. Điều này sẽ làm tăng sự lắng tụ phù sa, các chất lơ lửng. Trong những điều kiện bình thường, khu dự trữ nước được đánh giá phù hợp là nó cho phép dòng nước tự chảy để cấp vào ao nuôi tôm. Cách lựa chọn khác là bơm nước vào kênh cấp nước khi mà độ cao của khu dự trữ nước xuống thấp và không tự chảy được.
Hệ thống kênh cấp nướcphải có dung tích và diện tích lớn. Với một thể tích lớn sẽ cho phép nước được xử lý hoặc gây màu nước ngay trên kênh cấp khi không thể thực hiện tron khu trữ nước. Ví dụ có thể bón phân hoặc xử lý vôi trong kênh cấp nước. Các bơm nước và dung tích kênh cấp phải cho phép việc thay nước cho một hoặc nhiều ao nuôi tôm trong cùng một lúc. Với những kênh cấp nhỏ thì khoa thay nước cho ngay cả một ao nuôi tôm, mặc dù là khi trại có các bơm nước công suất lớn. Cũng giống như khu trữ nước, các kênh cấp nước cần có một độ cao thích hợp để nước tự chảy trong điều kiện bình thường. Cần chú ý là chất acid đất, chất phèn từ đất có thể thấm vào nguồn nước ở kênh cấp nước hoặc vào cả trong ao nuôi tôm.
Một mô hình ao nuôi tốtlà cho phép việc quản lý các chất cặn bẩn và chất thải có hiệu quả. Chất cặn bẩn cần được gom lại trong một vùng giới hạn của ao nuôi, bình thường là ở vị trí trung tâm của ao. Một ao nuôi được thiết kế tốt cũng sẽ dễ dàng trong việc quản lý một số vấn đề khác như thay nước ao hoặc khi thu hoạch tôm. Trong một ao nuôi tôm cần lưu ý đến hình dạng ao, vị trí đặt các quạt sục khí, kích cỡ của ao, các bờ bao, tấm lót nền và bờ bao, cống cấp và cống thoát. Hình dạng của ao có mối liên kết với vị trí đặt của quạt sục khí và dòng nước chảy, đặc biệt quan trọng trong việc kiểm soát chất cặn bẩn. Cần giữ cho được một vùng đáy ao rộng, không có chất cặn bẩn là điều rất quan trọng để cho tôm tìm kiếm thức ăn một cách hiệu quả. Các ao hình vuộng hoặc hình tròn là loại ao có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, các ao hình chữ nhật cũng có thể nuôi thành công khi tạo được dòng nước chảy vòng tròn một cách hiệu quả.
Vị trí đặt các quạt sục khícần phải được tính toán. Quạt sục khí có 2 chức năng là tạo sự chuyển động cho nước và tăng độ hoà tan oxy. Như đã nói ở trên, vị trí của quạt sục khí và hình dạng của ao có mối liên kết với nhau để giữ vùng đáy ao tối đa khỏi bị bẩn. Điều này có nghĩa là việc tích tụ các chất cặn bẩn sẽ được thúc đẩy gom lại trong một vùng tương đối nhỏ ở trung tâm của ao. Khi tôm lớn lên thì số quạt sục khí cũng đòi hỏi tăng lên và điều quan trọng là vị trí đặt mới các quạt sục khí phải tránh không làm xáo trộn các chất cặn bẩn đã lắng đọng ở giữa ao.
Trong một tháng nuôi đầu tiên, đáy ao thường tương đối sạch sẽ, vì vậy chỉ cần 4 quạt sục khí đặt ở 4 cạnh ao là có hiệu quả cho những ao có kích thước dưới 1 ha. Vị trí cánh quạt cần cách xa đáy bờ bao khoảng 3-5 m hoặc nếu ở chân bờ bao có mương rãnh ngầm thì cần cách mương rãnh này khoảng 2 m trở ra. Nếu khoảng cách giữa 2 quạt sục khí lớn hơn 50 m thì sau 6-8 tuần thả nuôi sẽ cần lắp thêm quạt sục khí. Nếu vị trí khoảng cách giữa 2 quạt đầu tiên trong khoảng 50-70 m thì vị trí của quạt đặt thêm sẽ nằm ở giữa 2 quạt này và cần cách xa bờ bao khoảng 15-20m. Còn nếu vị trí khoảng cách giữa 2 quạt đầu tiên dài hơn 70-100 m thì vị trí đặt quạt sục khí mới cũng ở giữa 2 quạt này nhưng vị trí cánh quạt mới chỉ cần cách xa đáy bờ bao 3-5 m. Nếu các ao nuôi tôm với mật độ cao hoặc đáy ao bị bẩn vì bất kỳ lý do gì thì cũng cần tăng cường thêm các quạt sục khí nhưng khi lắp thêm các quạt sục khí mới thì cần tránh làm xáo trộn nhiều đến các chất cặn bẩn đã lắng tụ ở giữa ao.
Kích cỡ ao:Các ao càng nhỏ càng dễ quản lý nhưng chi phí xây dựng và điều hành sẽ tốn kém hơn. Các ao bình thường từ 0,5 đến 1 ha thì hiệu quả nhất để nuôi tôm sú với mật độ từ 30 con/m 2trở lên và ao từ 1-2 ha để nuôi bán thâm canh ở mật độ nhỏ hơn 30 con/m 2 .
Các bờ bao cần đủ cao để phòng ngừa lũ lụt tràn qua trong những trận mưa lớn. Các bờ bao nên cao hơn 0,3-0,5 m so với mức nước cao nhất. Độ nghiêng của chân bờ bao phụ thuộc vào cấu tạo của chất đất trong vùng. Nếu chất đất mềm hoặc pha cát thì độ nghiêng của chân bờ bao làm theo tỷ lệ 1:1,5. Nếu ở nơi chất đất ít bị xói mòn thì độ nghiêng chân bờ bao theo tỷ lệ 1:1. Ở một số nơi có thể làm bờ bao bằng bê tông để giảm sự thẩm thấu chất phèn vào trong ao và chống sói mòn, nhưng chi phí đầu tư sẽ rất cao. Ở một số nơi, bờ bao có thể xây dựng bằng đá hoặc đá ong với xi măng sẽ có chi phí rẻ hơn. Một số bờ bao cần được đắp rộng rãi để cho xe tải có thể vận chuyển hàng hoá đi lại hoặc xây dựng nhà kho và các công trình khác như đường dây điện. Cuối cùng, các bờ bao cũng cần phải vững chắc để làm nơi gắn quạt sục khí. Ngay từ khi lập thiết kế kế hoạch xây dựng trại nuôi tôm, người nuôi tôm cần tính đến các bờ bao này.
Nguồn: Khoa học phổ thông, số 720, 19-25/5/2004