Thế nào là “có thể tiếp tục phát triển”?
“Tăng trưởng” và “phát triển” vừa quan hệ mật thiết với nhau, vừa khác nhau về bản chất.
“Tăng trưởng” tức là tăng trưởng kinh tế, là chỉ sự tăng trưởng của một khu vực trong một thời gian nhất định về mặt cải tiến quốc dân hoặc của cải xã hội. Cụ thể mà nói, tức là “sự tăng thêm về sản phẩm sản xuất và tổng lượng dịch vụ của một nước”. Kinh tế tăng trưởng thông thường có thể dùng chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất quốc dân (GNP) hoặc tổng giá trị sản lượng quốc nội (GDP) để biểu thị.
“Phát triển” là chỉ kinh tế phát triển, hoặc xã hội phát triển. Nó không những bao hàm nội dung tăng trưởng về kinh tế mà còn có ý nghĩa rộng hơn là cùng với sự tăng trưởng đó đã xuất hiện sự biến đổi về “cấu trúc”, ví dụ kết cấu kinh tế, kết cấu xã hội, kết cấu chính trị… Có thể thấy nội hàm của “Tăng trưởng kinh tế” khá hẹp, là một khái niệm đơn thuần thiên về số lượng và tốc độ, còn nội hàm của “Phát triển kinh tế” rộng hơn, là một khái niệm tổng hợp bao gồm cả số lượng và chất lượng, vừa xét đến nhân tố kinh tế lại vừa xét đến nhân tố xã hội và nhân tố môi trường. Cho nên chúng ta nói “Tăng trưởng” khác với “Phát triển”.
Tăng trưởng kinh tế là biện pháp, phát triển kinh tế xã hội là mục đích. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở của sự phát triển kinh tế, kinh tế phát triển là kết quả của sự tăng trưởng kinh tế. Nói chung không có tăng trưởng kinh tế thì không thể có phát triển kinh tế, nhưng có tăng trưởng kinh tế không nhất định sẽ có phát triển kinh tế. Có lúc kinh tế tuy tăng trưởng với tốc độ nhanh, nhưng lâu dài tạo ra sự phân hóa hai cực, người giàu càng giàu, nghèo càng nghèo. Hoặc trong tăng trưởng kinh tế, một phần lớn là sự tiêu hao kinh tế quốc dân, không bù đắp cho quốc tế dân sinh, hoặc chỉ theo đuổi tốc độ tăng trưởng của kinh tế mà không chú ý đến phúc lợi cho nhân dân, không xét đến cái giá xã hội phải trả. Tất cả những điều đó chứng tỏ: tăng trưởng và phát triển không phải là thống nhất, có thể có tăng trưởng mà không có phát triển.
Trước thập kỷ 70 của thế kỷ 20, kinh tế học truyền thống phương Tây thường lẫn lộn giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế làm một, xem sự tăng thêm về của cải là mục tiêu căn bản nhất của hoạt động kinh tế loài người. Đến năm 1970, người ta mới bắt đầu chú ý đến những nước đang phát triển, tổng giá trị sản xuất quốc dân tăng lên nhưng sự cải thiện phương thức sản xuất không tương xứng, cục diện sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa đô thị đều không tăng cao. Vì vậy khi Liên hợp quốc định ra chiến lược phát triển quốc tế 10 năm lần thứ 2 (1970 – 1980) đem sự phát triển khái quát thành “Tăng trưởng kinh tế cộng với cải cách xã hội”. Đến thập kỷ 80, khái niệm “Có thể tiếp tục phát triển” được chính thức đề ra.
“Có thể tiếp tục phát triển” tức là có thể tiếp tục duy trì sự hài hòa, thống nhất về 3 mặt: kinh tế, sinh thái và xã hội. Nó đòi hỏi loài người trong quá trình phát triển phải giữ được hiệu suất kinh tế, quan tâm đến sự hài hòa của sinh thái, thực hiện công bằng xã hội để cuối cùng đạt được sự phát triển toàn diện. Điều đó chứng tỏ “Có thể tiếp tục phát triển” tuy bắt nguồn từ vấn đề bảo vệ môi trường, nhưng đã trở thành một lý luận chỉ đạo sự phát triển của nhân loại bước sang thế kỷ 21. Nó đã vượt quá khái niệm bảo vệ môi trường đơn thuần. Nó đem vấn đề môi trường và phát triển kết hợp hữu cơ với nhau, trở thành một chiến lược có tính toàn diện liên quan với kinh tế, xã hội và phát triển.
Có thể tiếp tục phát triển về kinh tế đòi hỏi chúng ta phải thay đổi mô hình sản xuất truyền thống là “Đầu vào cao, tiêu phí cao, ô nhiễm cao” và phương thức tiêu phí, thực hiện sản xuất sạch và tiêu phí văn minh. Thực hiện được “có thể tiếp tục phát triển kinh tế” tức là có thể đảm bảo phương thức có thể tiếp tục sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, hạ thấp giá thành môi trường, khiến cho sự phát triển loài người được khống chế trong phạm vi quả đất có thể chịu đựng được, để đạt được mục đích duy trì sinh thái. “Có thể tiếp tục phát triển về mặt sinh thái” là nhấn mạnh phải bảo vệ môi trường, nhưng khác với cách làm trước đây là thường đối lập giữa bảo vệ môi trường với phát triển xã hội. Có thể tiếp tục phát triển đòi hỏi phải thay đổi mô hình phát triển, tức là phải xuất phát từ lợi ích phát triển lâu dài của nhân loại để giải quyết một cách căn bản, triệt để vấn đề môi trường. Bản chất của phát triển nên bao gồm cải thiện chất lượng cuộc sống con người, nâng cao sức khỏe, tạo nên môi trường bảo đảm cho sự bình đẳng tự do, giáo dục, nhân quyền và không có bạo lực, chứ không phải đòi hỏi con người vứt bỏ khoa học kỹ thuật cao và hiện đại hóa, quay trở về xã hội nguyên thủy mông muội. Đó cũng chính là điều mà chúng ta đeo đuổi về “có thể tiếp tục phát triển về mặt xã hội”.
Tóm lại trong “có thể tiếp tục phát triển” thì “có thể tiếp tục phát triển kinh tế” là cơ sở, “có thể tiếp tục phát triển sinh thái” là điều kiện, “có thể tiếp tục phát triển xã hội” là mục đích.
Năm 1972, Hội nghị môi trường nhân loại được triệu tập đã kêu gọi toàn thế giới “Chỉ có một quả đất”. Lời kêu gọi đó đã dấy lên cao trào bảo vệ môi trường lần thứ nhất. Sự nghiệp bảo vệ môi trường của Việt Nam cũng bắt đầu từ hồi đó. Năm 1972, Liên hiệp quốc triệu tập Hội nghị môi trường và phát triển, lại đưa ra “Chương trình nghị sự thế kỷ 21” đã thực sự thúc đẩy nhân dân các nước ngày càng coi trọng hơn vấn đề môi trường bị ô nhiễm, ứng xử với nó như là vấn đề trung tâm về sự sinh tồn và phát triển của nhân loại. Từ đó mở màn cho làn sóng mới về bảo vệ môi trường, xã hội loài người bắt đầu bước vào một thời đại cách mạng xanh với trọng tâm là “thiên nhiên cao cả, bảo vệ môi trường, thực hiện tiếp tục phát triển”. Trước đây các sản phẩm bảo vệ môi trường “để giữ cho môi trường không bị ô nhiễm mà tiến hành xử lý phần cuối những chất gây hại cho môi trường do quá trình sản xuất công nghiệp thải ra”. Còn ngày nay nó được xuyên suốt trong quá trình sản xuất, bao gồm sản xuất sạch, sử dụng tuần hoàn các nguyên liệu và nguồn năng lượng sạch, vừa giảm thấp các chất gây ô nhiễm, vừa bao hàm sự lựa chọn, xác định địa điểm, thiết kế nhà máy, bao gói sản phẩm, doanh tiêu sản phẩm…
Các sản nghiệp bảo vệ môi trường là những sản nghiệp có tốc độ phát triển nhanh nhất từ thập kỷ 90 đến nay, được xem là sản nghiệp “triều dương” của kỹ thuật cao.








