"Thắt lưng..." đầu tư cho giáo dục
Kể từ năm 1993 đến nay, tiền vay cho giáo dục trung bình là 100 triệu USD/năm. Đầu tư của Nhà nước năm 2007 đã đạt con số 67.000 tỷ đồng - hơn 4 tỷ USD. đóng góp của người dân cho giáo dục còn quá lớn, chiếm tới 55% trong tổng chi cho giáo dục. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng mức đóng góp của dân cho giáo dục ở nước ta thuộc hàng cao nhất thế giới.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, 20% ngân sách đã dành cho giáo dục. Đóng góp của người dân rất lớn, vốn vay của nước ngoài đầu tư cho ngành này cũng nhiều nhưng giáo dục vẫn liên tục bất ổn, loay hoay chưa tìm ra hướng đi.
Nhìn ra thế giới, để thấy người VN chúng ta đã phải thắt lưng buộc bụng đóng góp cho giáo dục ra sao. Tại Mỹ, đại đa số cơ sở giáo dục từ nhà trẻ đến đại học được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước. Nguồn nhà nước chiếm 80% tổng chi phí giáo dục, còn lại 20% các cơ sở giáo dục do tư nhân tài trợ (tập đoàn, công ty, quỹ tư nhân...). Tiền học phí do dân đóng góp, chỉ chiếm con số nhỏ. Từ những năm 80 đến nay, các tổng thống Mỹ đều tự cho mình là "Tổng thống của giáo dục". Các trường phổ thông chủ yếu là công lập, chỉ có 10% trường tư. Gần 90% trường tiểu học và THCS là công lập và không thu học phí trường tư ở các cấp phổ cập. Khác với bậc phổ thông, các trường đại học – cao đẳng (ĐH – CĐ) công lập đều thu học phí. Học phí trường ĐH - CĐ công thấp hơn nhiều với trường tư.
Ở Pháp chi cho giáo dục từ nhà nước chiếm 65%, sau đó các cấp chính quyền địa phương 20%, các DN 6%, các tổ chức an sinh xã hội 1%, còn các hộ gia đình 7%
Tại các nước Anh, Đức, Nga, Mỹ, Pháp, Trung Quốc, đóng góp của dân cho giáo dục chiếm 7 - 20% so với đầu tư của Nhà nước. Trong khi đó, tỷ lệ này của chúng ta là 55%.
Không chỉ vì chúng ta nghèo phải huy động sức dân, mà chính bởi hiệu quả đầu tư kém, lãng phí giáo dục lớn khiến ngành giáo dục luôn thiếu trước hụt sau. Bộ máy quản lý cồng kềnh kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân. Nhân lực quản lý và phi giảng dạy quá lớn, bộ máy quản lý và giúp việc gián tiếp hành chính khá cồng kềnh. Tại VN số cán bộ gián tiếp chiếm khoảng 1/3 - còn ở nước ngoài là 1/10 tổng số cán bộ ngành GD – ĐT, thậm chí chỉ 1%. Điều đó đánh giá tính hiệu quả về quản lý là khá kém. Kinh phí nuôi bộ máy quản lý , họp hành khá lớn, ước đoán khoảng ½ kinh phí cho giáo dục.
Năm 1996, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo Trần Hồng Quân đã cho điều tra xã hội học về các chủ trương giáo dục của ngành mình, sau 10 năm đổi mới, trong đó có chủ trương vay tiền nước ngoài. Đại bộ phận người được mời và hỏi ý kiến, không tán thành. Lý do "mất tự chủ và hiệu quả thấp" được ghi trong thông báo của Bộ GD - ĐT ngày 17/8/1996. Từ đó đến nay có rất nhiều dự án vay nợ nước ngoài đầu tư cho giáo dục đã và đang triển khai.
Theo con số của Bộ GD - ĐT có sự tổng hợp như sau: tính đến nay có 114 dự án với số tiền là 989,5 triệu USD bao gồm: (vốn vay 404,1 triệu USD cho 8 dự án lớn) + (viện trợ không hoàn lại là 477,35 triệu USD)+(vốn đối ứng là 108,7 triệu USD). Thực chất vay của nước ngoài là 880,8 triệu USD tính đến hết 2003. (Theo thông báo của Bộ GD-ĐT vào năm 2003). Sang năm 2004, số ( vay + viện trợ ) đã nâng lên 1.133,1 triệu USD, và vốn đối ứng 134, 3 triệu USD. Tổng hợp cho năm 2004 là 1.267,400 triệu USD.
Vay tiền nhiều như vậy, nhưng những gì ngành giáo dục làm được quả thật không tương xứng. Vay tiền để cải tạo mạng lưới ĐH, xây dựng ĐHQG, đến nay đã hơn 10 năm, nhưng ĐHQG vẫn chưa trở thành Trung tâm đào tạo nghiên cứu chất lượng cao, ĐHQG còn thua ĐH Chulalongkorn của Thái Lan khoảng 50 bậc. Đến nay vẫn chưa có bất cứ dấu hiệu nào nói chất lượng của ĐHQG sẽ nâng lên trong thời gian tới. Vay tiền để đổi mới CT - SGK nhưng gần 10 năm CT - SGK vẫn không thể nào xong, mà lại rơi vào tình trạng ách tắc. Dư luận bất bình.
Bên cạnh việc tìm ra một con đường để ổn định và phát triển giáo dục bắt kịp với thế giới, việc sử dụng các nguồn lực xã hội đầu tư một cách hiệu quả cũng là một đòi hỏi cấp thiết. Không chỉ vì được xã hội ưu tiên dành cho những ưu ái mà giáo dục có thể vung tay quá trán, lãng phí tràn lan. Sử dụng nguồn lực một cách hợp lý có thể giảm học phí trong toàn bộ hệ thống giáo dục. Điều đó mang lại cơ hội học tập bình đẳng hơn cho mọi người.
Nguồn: Vật lý ngày nay, số 3, 6/2007, tr 12








