Thấp tim – nguyên nhân hay gặp của bệnh van tim
Viêm họng là khởi đầu của bệnh thấp tim
Từ những năm 1930, các nhà khoa học đã tìm ra mối liên hệ giữa viêm họng và thấp tim. Viêm họng là một chứng bệnh rất thường gặp và hầu như ai cũng vài lần bị mắc phải khi còn trẻ. Viêm họng gây ra do hai nhóm tác nhân nhiễm trùng thường gặp: virus hoặc vitrùng, nguyên nhân do virus thường gặp hơn và không cần phải điều trị kháng sinh (bệnh tự khỏi sau 5 – 7 ngày), riêng nguyên nhân do vi trùng thì cần thiết phải dùng kháng sinh. Có rất nhiều loại vi trùng gây ra viêm họng, trong đó có loại được gọi là liên cầu khuẩn tan huyết beta nhóm A là gây ra sốt thấp cấp. Liên cầu khuẩn này không gây tổn thương trực tiếp tim mà thông qua cơ chế miễn dịch.
![]() |
Làm sao biết người nào sẽ bị sốt thấp cấp sau khi bị viêm họng? Thực tế rất khó nên người ta đã phải đưa ra chiến lược phòng ngừa. Khi đã xác định viêm họng do liên cầu khuẩn thì phải dùng kháng sinh điều tị ngay (vi khuẩn này nhạy cảm với kháng sinh). Khi xác định có thấp tim thì phải dự phòng bằng kháng sinh lâu dài nhằm loại trừ nhiễm liên cầu khuẩn.
Biểu hiện bệnh thấp tim
Đây là một bệnh hệ thống nên gây tổn thương nhiều cơ quan, có nhiều giai đoạn khác nhau và biểu hiện vô cùng đa dạng. Chẩn đoán bệnh tương đối khó khăn do không có biểu hiện nào đặc hiệu.
![]() |
Viêm timlà biểu hiện đặc hiệu của thấp tim, đây là biểu hiện nặng nhất của bệnh và để lại di chứng (là các bệnh van tim hậu thấp). Tất cả thành phần của tim gồm: nội tâm mạc, cơ tim, màng ngoài tim đều có thể bị viêm. Tổn thương tim có thể xảy ra trong nhiều đợt cấp, càng lúc càng nặng thêm. Trong đợt cấp, nếu tổn thương nặng có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Nhiều chuyên gia cho rằng nếu trẻ không bị viêm tim trong hai đợt cấp đầu tiên thì có nhiều hy vọng (90%) không bị tổn thương tim ở các đợt sau dù không phòng ngừa. Phần lớn bệnh nhân có viêm tim nặng sẽ bị di chứng van tim hậu thấp (hẹp, hở van hai lá; hẹp, hở van động mạch chủ…).
![]() |
Do biểu hiện của bệnh với rất nhiều triệu chứng, diễn ra ở nhiều giai đoạn khác nhau và hoàn toàn không đặc hiệu cho riêng bệnh thấp tim nên để chẩn đoán xác định bệnh người ta phải dùng tiêu chuẩn chẩn đoán của Jones được điều chỉnh năm 1992. Ngoài việc dựa vào các biểu hiện lâm sàng, phải có bằng chứng nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A trước đó (cấy họng tìm thấy liên cầu, định lượng kháng thể ASO trong máu). Người bệnh nhất thiết phải được bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán và điều trị để hạn chế tối đa các di chứng bệnh van tim về sau này. Có thể nói việc điều trị thấp tim rất phức tạp và chiến lược dự phòng rất chặt chẽ (dự phòng cấp I, cấp II) nên cần phải được thực hiện ở cơ sở y tế.











