Thanh niên di cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội là ai?
Trong 10 năm trở lại đây, ở Việt Nam , mức độ di chuyển dân cư giữa các địa phương tăng lên rất nhanh. Tại Hà Nội, tốc độ tăng dân số bình quân là 3% nhưng tăng dân số cơ học đã là 1,8%. Tỷ lệ nhập cư tăng từ 21,2‰ vào năm 1999, lên 29,6‰ năm 2004, 35,6‰ vào năm 2005 và còn tiếp tục tăng (Hà Nội Mới, 2009). Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố, tính đến tháng 5/2005, dân số Hà Nội là 3.098.000 người, trong đó diện KT3 là 108.000 người và KT4 là 210.000 người. Như vậy, hai nhóm KT3 và KT4 chiếm khoảng 9,5% so với tổng dân số Hà Nội. Bên cạnh đó, dân số Hà Nội còn khoảng 110.000 học sinh, sinh viên tạm trú thường xuyên (Ủy ban các vấn đề xã hội Quốc hội, 2005). Theo số liệu điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình (Tổng cục Thống kê, 2007),từ 1/4/2006 đến 31/3/2007 đã có 47.123 người di cư vào thành phố Hà Nội, tương đương 1,5% tổng số dân của Hà Nội. Ước tính trong năm 2010, Hà Nội sẽ có từ 120-130 nghìn người di cư đến (Dân trí, 2008).Tháng 8/2008, Hà Nội hợp nhất với tỉnh Hà Tây và một số khu vực của tỉnh Hòa Bình và Vĩnh Phúc, do đó, tổng số dân số của Hà Nội lên tới 6.232.940 người (gồm 2 thành phố và 27 huyện/quận), số lượng người di cư đến Hà Nội do đó cũng cao hơn.
Tổng quan một số nghiên cứu cho thấy động lực chính khiến người dân di cư là để giải quyết các vấn đề ở quê hương họ như thất nghiệp, thiếu việc làm và để cải thiện điều kiện sống (SCUK, 2006).Thêm vào đó, lạm phát gia tăng, thất bại trong phát triển chăn nuôi do các chi phí đầu vào tăng lên,… cũng là những lý do quan trọng dẫn tới dòng di cư từ nông thôn ra đô thị. Kết quả của một số nghiên cứu trước đây cho thấy, 42% người di cư từ nông thôn ra đô thị là do thiếu việc làm tại quê nhà, 49% trong số họ muốn tìm kiếm các cơ hội tăng thu nhập ở nơi đến (Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008).
Theo thống kê của Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, 52% người di cư đến các khu vực đô thị nằm trong độ tuổi dưới 25 (Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008).Những thanh niên này có thể làm việc trong các doanh nghiệp, các xí nghiệp ở khu vực kinh tế chính thức nhưng một bộ phận lớn trong số họ hiện làm việc trong các cơ sở sản xuất thuộc khu vực kinh tế phi chính thức. Bài viết này sẽ trả lời câu hỏi: Những thanh niên di cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà nội - Họ là ai? Cụ thể, bằng các kết quả phân tích từ bộ số liệu của Điều tra dân số Việt Nam năm 2004 và số liệu Điều tra Thanh niên di dân đến làm việc ở khu vực phi chính thức tại Hà Nội của Viện Dân số và các vấn đề xã hội năm 2009, các đặc điểm của nguồn nhân lực này sẽ được xác định rõ, ví dụ như địa điểm xuất cư của họ; xu thế về tuổi, giới, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, các động lực di chuyển…
1. Các khái niệm và nguồn số liệu được sử dụng
Theo Henry S. Shryock, nhà nhân khẩu học nổi tiếng của Mỹ, di dân là một hình thức di chuyển về không gian địa lý kèm theo sự thay đổi nơi thường trú theo các đơn vị hành chính. Như vậy, những thay đổi tạm thời nơi cư trú, không mang tính lâu dài như đi viếng thăm thân nhân, du lịch, buôn bán làm ăn, kể cả việc qua lại tạm thời biên giới thì không coi là di dân, bởi theo tác giả, di dân còn phải gắn liền với sự thay đổi các mối quan hệ xã hội của người di cư (Đặng Nguyên Anh, 2008).
Tại Việt Nam , cho đến nay, khái niệm di dân vẫn được xem là một thuật ngữ dùng trong nghiên cứu khoa học. Các bộ luật của Việt Nam chưa quy định rõ thế nào là di dân. Các văn bản pháp lý dưới luật có đề cập đến lao động ngoại tỉnh nhưng cũng chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất về lao động ngoại tỉnh. Chính vì vậy, trong các nghiên cứu và trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm di dân đang được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Năm 2004, Tổng cục Thống kê đã thực hiện Điều ta di dân quốc gia và sử dụng định nghĩa sau: “Người di cư được định nghĩa là những người 15-59 tuổi di chuyển từ huyện/quận này sang huyện/quận khác trong vòng 5 năm trước điều tra và đã cư trú ở nơi điều tra từ 1 tháng trở lên. Những người di chuyển từ quận này sang quận khác trong nội bộ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian 5 năm trước điều tra không được xem là người di cư. Những người 15-59 tuổi sống ở cùng huyện/quận trong ít nhất 5 năm trước điều tra được tính là người không di cư” (Tổng cục Thống kê, 2006).
Tháng 3.2009, Viện Dân số và các vấn đề xã hội đã tiến hành một điều tra về Thanh niên di cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội. Điều tra này được Plan International tài trợ và đã sử dụng định nghĩa như sau: “Thanh niên di cư từ nông thôn ra Hà Nội là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24, di chuyển từ các tỉnh khác và từ các huyện thuộc tỉnh Hà Tây cũ (Hà Nội II, trừ thành phố Hà Đông) về Hà Nội cũ (Hà Nội I) trong vòng 5 năm trước điều tra và đã cư trú ở nơi điều tra từ 1 tháng trở lên làm việc trong khu vực phi chính thức” (Nguyễn Thị Thiềng và cộng sự, 2009).
Liên quan đến định nghĩa “thanh niên di cư đến làm việc ở khu vực phi chính thức” trong Điều tra của Viện Dân số và CVĐXH, “khu vực phi chính thức” được hiểu là khu vực bao gồm (1) Các hoạt động kinh tế thuộc các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, quy mô nhỏ. Các hoạt động này thường đem lại những nguồn thu nhập nhỏ và không bắt buộc phải đăng ký theo quy định của pháp luật; (2) Các hoạt động kinh tế của các hộ sản xuất kinh doanh cá thể mà theo quy định các hoạt động này phải đăng ký kinh doanh nhưng họ đã không thực hiện nghĩa vụ này (Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, 2003).
Điều tra của Viện Dân số và CVĐXH gồm có hai hợp phần. Điều tra định lượng được thực hiện trên 903 nam nữ thanh niên di cư ở độ tuổi 15-24. Điều tra định tính bao gồm các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm đối với thanh niên di cư, các nhà quản lý xã hội (lãnh đạo Ủy ban nhân dân quận/huyện, công an quận/huyện, phòng lao động thương binh và xã hội quận/huyện…), các chủ sử dụng lao động tại Hà Nội, gia đình có thanh niên di cư nơi đi. Trong phân tích, nhóm mục tiêu được điều tra được chia thành 2 nhóm nhỏ hơn: (1) Nhóm trẻ em từ 15 đến tròn 19 tuổi (trước sinh nhật lần thứ hai mươi) và (2) Nhóm thanh niên từ 20 đến 24 tuổi (trước sinh nhật lần thứ 25). Việc phân chia này phù hợp với nguyên tắc phân tổ theo nhóm 5 độ tuổi trong nhân khẩu học hiện nay. Hơn nữa, việc tiếp cận thanh niên ở các nhóm tuổi như trên còn cho phép nghiên cứu các vấn đề của từng nhóm thanh niên dựa trên phương pháp tiếp cận về quyền của họ.
2. Nơi xuất cư của thanh niên di cư
Hiện tại, khoảng 85% người di cư đến các đô thị sinh ra tại khu vực nông thôn (TCTK, UNFPA, 2005 tr.7 và UNFPA, 2007, tr.10).Theo kết quả của Điều tra di dân Việt Nam 2004, thanh niên di cư đến Hà Nội 5 trong năm trước thời điểm điều tra có nguồn gốc ở rất nhiều tỉnh. Nhưng nhiều nhất là các tỉnh lân cận Hà Nội, như Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương. Ngoài những tỉnh lân cận Hà Nội thì Thanh Hóa, Phú Thọ và Thái Bình cũng là những tỉnh có nhiều thanh niên di chuyển đền Hà Nội.
Trong Điều tra của Viện Dân số và CVĐXH năm 2009, Hà Tây cũ, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hóa và Phú Thọ là những tỉnh có số người di cư đến Hà Nội làm việc trong khu vực phi chính thứ nhiều nhất. 15,9% nam và 12,5% nữ thanh niên được điều tra xuất cư từ Hà Tây cũ. 11,9% nam và 10,3% nữ thanh niên được điều tra có nơi xuất cư là Nam Định. 9,2% nam và 8,0% nữ thanh niên xuất cư từ Hà Nam, 7,2% nam và 11,3% nữ thanh niên ra đi từ Thanh Hóa và tương ứng 8,7% và 7,7% xuất cư từ Phú Thọ.
Đa số thanh niên di chuyển đến Hà Nội xuất thân từ nông thôn đồng bằng. Có tới 75,2% nam thanh niên và 78,4% nữ thanh niên nhập cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội “đi ra” từ nông thôn đồng bằng. Tỷ lệ đến từ miền núi tương ứng chỉ là 11,8% và 14,3%, các đô thị nhỏ là vùng có tỷ lệ thanh niên di cư đến Hà Nội thấp nhất (13,0% và 7,3%).
3. Các đặc trưng nhân khẩu học của thanh niên di cư
Trong nhóm thanh niên di cư đến làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội, nhóm tuổi 20-24 chiếm ưu thế hơn so với nhóm tuổi 15-19. Theo Điều tra của Viện Dân số và CVĐXH, thanh niên di cư ở nhóm tuổi 20-24 chiếm 69,2% trong tổng số thanh niên di cư từ 15-24 tuổi, cao gấp hơn hai lần so với nhóm còn lại. Điều này được lý giải bằng kết quả của hợp phần nghiên cứu định tính. Đó là thanh niên ở nhóm tuổi 15-19 vẫn còn trong độ tuổi đi học nên khả năng di cư thấp hơn nhóm 20-24. Ngoài ra, thanh niên ở nhóm tuổi 20-24 có khả năng di chuyển cao nhất vì họ năng động, sáng tạo, không kén việc, cần cù, chịu khó và có năng lực lao động.
Nếu như trong những năm 1970, người di cư đại bộ phận là nam giới, thì từ sau khi Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì “tỷ lệ nữ di cư đang tăng lên và số lượng người di cư là nữ chuyển đến các khu đô thị và khu công nghiệp đã bắt đầu nhiều hơn nam” (UNFPA, 2007, tr.10). Theo kết quả Điều tra di dân Việt Nam 2004, tỷ lệ nam thanh niên di chuyển đến Hà Nội ít hơn nữ (38,8% nam so với 61,2%nữ). Tuy nhiên, trong số thanh niên nhập cư đến khu vực phi chính thức tại Hà Nội, nam giới vẫn chiếm ưu thế. Ở cả hai nhóm tuổi 15-19 và 20-24, tỷ lệ nam thanh niên di cư đến Hà Nội làm việc trong khu vực phi chính thức đều cao hơn nữ (gấp 1,5 lần). Điều này có thể do công việc ở khu vực phi chính thức là những công việc năng nhọc đòi hỏi sức khỏe.
“Đa số người di cư đến các đô thị còn độc thân” (TCTK, UNFPA, 2005, tr.7 và UNFPA, 2007, tr.10). Mặc dù số liệu giữa các nguồn khác nhau có thể khác nhau, nhưng tổng quan các nghiên cứu trước cho thấy, tỷ lệ độc thân trong tổng số người di cư ra thành thị chiếm khoảng 50% (Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh và cộng sự, 2006, tr.106).Thậm chí có nghiên cứu còn cho biết tỷ lệ di cư độc thân còn chiếm tới gần 70% (Vũ Thị Hồng, Patrick Gubry, Lê Văn Thành, 2003, tr.66).Tuy nhiên, nếu xem xét tình trạng hôn nhân phân theo giới tính của người di cư, các nghiên cứu trước cũng chỉ ra rằng tỷ lệ nữ đã kết hôn di chuyển nhiều hơn nam (Lê Bạch Dương, Khuất Thu Hồng, 2008, tr.86).
Điều tra dân số của Viện Dân số và CVĐXH đã cho thấy (90,2%) thanh niên nhập cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội cũng chưa kết hôn. Tuy nhiên, trong số nữ thanh niên nhập cư, 16,2% đã kết hôn trước khi di chuyển. Tỷ lệ này ở nhóm nam thanh niên nhập cư chỉ là 6,0%. Trong số những thanh niên nhập cư đã kết hôn, 66,0% đã có ít nhất một đứa con.
4. Trình độ học vấn và chuyên môn của thanh niên nhập cư
Trong những năm 70 và những năm đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX, “mức độ di cư tỷ lệ thuận với trình độ học vấn” (UNFPA, 2006, tr.11).Nhưng từ sau khi có chính sách “Đổi mới”, đặc trưng học vấn của dòng di dân ra thành phố dường như có sự thay đổi. Bên cạnh xu thế truyền thống lại có dòng di cư của những người có trình độ học vấn thấp ra thành phố làm việc tại khu vực phi chính thức hoặc làm những công việc lặt vặt, nội trợ. Nhiều nghiên cứu đã rút ra kết luận là trình độ học vấn của lao động di cư nữ thấp hơn lao động di cư nam. Số năm học bình quân của lao động di cư nam cao hơn lao động di cư nữ (Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh và cộng sự, tr.107 và Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008, tr.92).
Theo kết quả Điều tra di dân Việt Nam 2004, 40,1% thanh niên di cư đến Hà Nội đã tốt nghiệp trung học phổ thông và 31,6% đã tốt nghiệp trung học cơ sở, 17,1% đã tốt nghiệp cao đẳng/đại học. Đáng chú ý là trình độ học vấn của nữ thanh niên nhập cư vào Hà Nội không mấy khác biệt so với trình độ học vấn của nam thanh niên. So với các nhóm người di cư đến các thành phố khác, nhóm thanh niên di cư đến Hà Nội có trình độ học vấn cao hơn.
Trong Điều tra về thanh niên nhập cư làm việc ở khu vực phi chính thức tại Hà Nội của Viện Dân số và CVĐXH năm 2009, nghề nghiệp của lao động của thanh niên trước khi nhập cư đến Hà Nội chủ yếu là làm nông nghiệp hoặc đi học. Có tới 31,7% nam giới và 39,0% nữ đi học trước khi nhập cư đến Hà Nội.
Thực tế, trình độ học vấn của thanh niên di cư đến hà Nội làm việc ở khu vực phi chính thức tương đối cao. 46,3% thanh niên di cư đã tốt nghiệp trung học cơ sở; 41,7% đã tốt nghiệp trung học phổ thông. Trình độ học vấn trung bình của nam thanh niên cao hơn so với nữ thanh niên nhưng mức chênh lệch không đáng kể (10,2 năm đối với nam so với 10 năm đối với nữ). Nhóm thanh niên 15-19 tuổi có số năm đi học trung bình là 9,4 năm, nhóm thanh niên 20-24 tuổi có số năm đi học trung bình là 10, 2 năm. Số thanh niên đã qua đào tạo nghề hay chuyên môn chiếm 30,1% so với 4,8% đã được đào tạo ở bậc đại học; 14,5% đã được đào tạo nghề ngắn hạn và 8,6% đã học sơ cấp/trung học chuyên nghiệp. Như vậy, tỷ trọng thanh niên nhập cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội đã được đào tạo nghề cao hơn so với tỷ lệ lao động được đào tạo trong dân số toàn quốc. Song, so với nhu cầu về chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thủ đô, tỷ lệ thanh niên nhập cư đã qua đào tạo như vậy còn thấp. Nếu không được tiếp tục đào tạo thì khả năng di chuyển của họ đến thị trường lao động của khu vực kinh tế chính thức là rất thấp và khó có cơ hội thăng tiến.
5. Các nguyên nhân di dân
Tổng quan các nghiên cứu trước đây trên thế giới di dân từ nông thôn ra thành thị không phải là một đề tài mới. Ngay từ những năm cuối thế kỷ 19 và trong suốt thế kỷ 20, nhiều tác giả đã nghiên cứu và tổng kết các mô hình, xu hướng di dân dưới áp lực của nhiều tác nhân kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Ravestein, một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu về vấn đề di dân thuộc trường phái cổ điển cuối thế kỷ 19 cho rằng di dân xảy ra do sự khác biệt về trình độ phát triển, do tiến trình công nghiệp hóa và phát triển thương mại giữa các khu vực của một quốc gia. Ngoài ra, di dân còn bị chi phối bởi khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người sống ở khu vực kém phát triển hay nghèo khổ thường có xu hướng chuyển đến những khu vực phát triển hơn (Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2003).
Đến những năm 50 của thế kỷ 20, Lewis (1954) trong tác phẩm “Sự phát triển kinh tế đối với việc cung cấp không giới hạn về lao động” đã liệt kê một số lý do của luồng di dân từ nông thôn ra thành thị, trong đó lý do kinh tế đóng vai trò chủ đạo. Lewis cho rằng tăng trưởng kinh tế và sự mở rộng của khu vực công nghiệp đặt ra đòi hỏi phải có thêm lực lượng lao động. Sự tăng lên không ngừng của dân số trong khi đất đai không tăng lên đã làm cho lao động nông nghiệp dư thừa. Số lao động dư thừa này có khuynh hướng tìm kiếm cơ hội công việc làm tại các khu công nghiệp và thành phố, nơi có nhu cầu tuyển dụng. Đây được coi là sự điều tiết có tính chất tự nhiên, là sự cân bằng lao động giữa các khu vực, các ngành nghề. Tiếp theo, sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và đô thị. Làn sóng di cư lao động sẽ dừng lại khi thu nhập ở đô thị cân bằng với mức tu nhập của người dân ở nông thôn.
Lê (1996) tổng kết hai nhóm yếu tố quyết định sự di cư của người dân từ nông thôn ra thành thị: i) Nhóm yếu tố tiêu cực-nghèo đói, sự thiếu thốn các cơ hội kinh tế, thiếu đất, mức sống thấp ở quê nhà và ii) Nhóm yếu tố tích cực-sự thịnh vượng, cơ hội công việc làm ăn, mức sống cao ở nơi đến… Trong hai nhóm yếu tố này, những yếu tố tiêu cực tác động mạnh hơn buộc người ta phải rời nơi sinh sông của mình còn các yếu tố tích cực phản ánh sự hấp dẫn của nơi đến. Cũng trong thời gian này, lý thuyết di dân nông thôn-thành thị của Todaro ra đời. Lý thuyết của Todaro chỉ ra rằng giữa nông thôn và thành thị luôn có những chênh lệch về tiền lương. Chính sự khác biệt này đóng vai trò thúc đẩy sự di cư. Để có thể tham gia vào thị trường lao động ở đô thị, người lao động chấp nhận tất cả các công việc có thể làm được dù là nặng nhọc, ngắn hạn, không ổn định. Những người di cư tiềm năng sẽ tính toán và sẽ tiếp tục di cư khi mà tiền lương của họ mong đợi ở thành thị vượt qua thu nhập cơ bản của lao động nông nghiệp.
Một số tác giả khác như Asfaha và Jooste (2006) và Nanavati (2007) cũng đồng tình với quan điểm của Todaro, đồng thời nhấn mạnh rằng hiện tượng dư thừa lao động hoặc thất nghiệp tạm thời ở khu vực nông thôn trong giai đoạn chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp hóa là phổ biến. Các tác giả này chứng minh rằng quá trình chuyển đổi này có liên hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông thôn sang công nghiệp, nơi năng suất trên mỗi đơn vị lao động thường cao hơn, có nghĩa là tiền lương nhận được cũng cao hơn. Xu hướng di dân từ nông thôn ra thành thị, do đó, được xem là một quá trình tự nhiên, trong đó lực lượng lao động luôn dôi dư ở nông thôn được dùng để bù vào sự thiếu hụt lao động trong khu vực công nghiệp đô thị trong quá trình phát triển công nghiệp.
Trên quan điểm kinh tế đơn thuần, hiện tượng di dân nông thôn-thành thị có ý nghĩa tích cực đối với quá trình phát triển kinh tế do nguồn nhân lực dôi dư được điều chuyển từ nơi có giá trị lao động thấp sang những nơi có giá trị lao động cao hơn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, việc tái phân bổ lực lượng lao động luôn đi kèm với hàng loạt các vấn đề xã hội, môi trường và cái giá phải trả cho các vấn đề này thường rất khó tính bằng tiền. Nói cách khác, trên quan điểm phát triển bền vững, nơi phát triển xã hội, môi trường cũng có tầm quan trọng không kém phát triển kinh tế, “bảng kê” thu – chi, được-mất của người lao động di cư, người lao động ngoại tỉnh cần được xem xét lại.
Các đặc điểm của di dân nông thôn-đô thị trên đây là khá đồng nhất với các đặc điểm của xu hướng di dân tại Việt Nam trong những năm vừa qua. Kể từ năm 1986, khi chính sách Đổi mới bắt đầu được thực hiện trên phạm vi cả nước, nền kinh tế Việt nam chuyển dần từ cơ chế tập trung sang cơ chế định hướng thị trường. Cơ cấu kinh tế cũng dần thay đổi trong hơn 20 năm qua, trong đó tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ vào GDP tăng dần, đồng thời, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp và các tiểu ngành nông nghiệp giảm dần. Trong khi đó, hơn 75% trong tổng số 86,5 triệu cư dân Việt Nam hiện đang sinh sống tại khu vực nông thôn và có sinh kế phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế dẫn đến thu nhập được tái phân bổ và khoảng cách phát triển giữa nông thôn-thành thị ngày càng lớn. Các khu vực công nghiệp đô thị, trong đó có Hà Nội, có điều kiện thuận lợi hơn nhiều trong việc thu hút đầu tư của Chính phủ và của doanh nghiệp nước ngoài, tích lũy tư bản và tiến bộ công nghệ. Thu nhập bình quân của cư dân đô thị, do đó được cải thiện đáng kể.
Khu vực nông thôn, trái lại, đang chịu sức ép dân số. Đất-nguồn tài nguyên chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp trình độ thấp-ngày càng trở nên khan hiếm. Diện tích canh tác trung bình trên đầu người đã xuống đến mức tối thiểu. Thêm vào đó, các loại nông sản của Việt Nam đang đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nhà sản xuất khác trong khu vực vốn có công nghệ và phương pháp quản lý nông nghiệp vượt trội. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp giảm đến mức cư dân nông thôn không thể đủ sống nếu chỉ dựa vào nông nghiệp.
Có thể thấy rằng di dân nông thôn-thành thị ở Việt Nam có liên quan chặt chẽ bất bình đẳng về kinh tế-xã hội, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm còn khá phổ biến ở nông thôn (Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh và cộng sự, 2006, tr.99). Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng thất nghiệp không phải là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến quyết định di chuyển mà nguyên nhân chủ yếu là do chênh lệch về thu nhập, chênh lệch về điều kiện sống do giá cả sản phẩm nông nghiệp thấp (UNFPA, 2007, tr.1 và Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng, 2008, tr.87).
Nghiên cứu của Viện Dân số và CVĐXH năm 2009 đã cho thấy sức hút ở đầu đến là nguyên nhân chủ yếu khiến thanh niên di cư đến Hà Nội làm việc tại khu vực phi chính thức chứ không phải là sức đẩy ở đầu đi. Tuy nhiên, trong số những nguyên nhân do sức đẩy ở đầu đi thì thiếu việc làm là nguyên nhân quan trọng nhất (8,1% đối tượng điều tra). Nghiên cứu định tính cho thấy tình trạng thiếu việc làm xẩy ra lại là do diện tích đất canh tác nông nghiệp bình quân đầu người thấp và ngày một giảm, do thiếu các điều kiện hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là hệ thống thủy lợi nên việc canh tác chỉ thực hiện được 1 vụ trong năm. Ngoài nguyên nhân kinh tế thì nguyên nhân phi kinh tế cũng thúc đẩy dòng di chuyển lao động nông thôn ra Hà Nội. Trong nhóm nguyên nhân này phải kể đến tâm lý của người trẻ tuổi muốn vươn ra ngoài để học hỏi, để có thêm hiểu biết cho cuộc sống. Thâm chí có ý tưởng của thanh niên là muốn ra khỏi nhà để thoát khỏi sự kiểm soát của các bậc cha mẹ.
Thu nhập cao và cơ hội việc làm ở Hà Nội (sức hút kinh tế) là hai nhân tố chủ yếu thu hút thanh niên nhập cư vào Hà Nội. Nghiên cứu định lượng cho thấy lý do chính thu hút thanh niên di cư đến Hà Nội làm việc ở khu vực phi chính thức là tăng thu nhập (46,3% ĐTĐT), sau đó là tìm được việc làm ở nơi ở mới (23,1%), đi học (10%)
Theo dữ liệu từ cuộc Điều tra di dân Việt Nam 2004, “khoảng 2/3 nam giới và 80% nữ giới di cư nói là đã có những người khác tham gia vào quyết định di cư của họ” (UNFPA, 2007, tr.13). Mặt khác, các nghiên cứu trước cũng cho thấy “quyết định di cư có thể không đơn thuần phản ánh nguyện vọng hoặc nhu cầu của bản thân người di cư mà có sự tham gia của cả hộ gia đình nhằm thu lợi cao nhất hoặc giảm thiểu thấp nhất rủi ro” (Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh và cộng sự, 2006, tr.100). Tuy nhiên, đa số (74,1%) thanh niên di cư đến làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội trong Điều tra của Viện Dân số và CVĐXH năm 2009 đã tự quyết định hành vi di chuyển của mình, không khác biệt nam và nữ (81,7% nam và 78,5% nữ ở nhóm tuổi 20-24 so với 59,9% nam và 58,3% nữ ở nhóm tuổi 15-19). Gần một nửa số thanh niên (42,6%) đã tham khảo ý kiến cha mẹ trước khi quyết định di chuyển.
6. Xu hướng di dân đến Hà Nội
Theo số liệu của Sở Công an Hà Nội, di dân ngoại tỉnh thuộc diện KT3 và KT4 trong giao đoạn 2006-2008 tăng nhanh về quy mô từ 272.260 người năm 2006 tăng lên 459.923 năm 2008, về mặt tỷ trọng tăng tương ứng là từ 4,8% lên 12,2%. Trong số 15 quận, huyện của Hà Nội, Cầu Giấy, Từ Liêm, Hoàng Mai và Thanh Xuân là 4 quận huyện có tỷ lệ nhập cư lớn nhất và có xu hướng tăng trong 3 năm qua, tương ứng là tăng 12,4%, 13,1%, 16,1% và 13,9% năm 2006; 26,8%, 26,8%, 17,2% và 16,4% năm 2008. Đây là các vùng có tốc độ đô thị hóa nhanh trong thời gian gần đây, kéo theo thu hút lượng lao động nhập cư ngày càng nhiều.
Trong Điều tra của Viện Dân số và CVĐXH năm 2009, theo nhận định của các nhà quản lý xã hội và người dân ở một số tỉnh có người dân xuất cư đi được khảo sát, trong tương lai gần, nếu không có đột phá về kinh tế (thu hút đầu tư mở mang các khu công nghiệp lớn tại địa phương) thì người dân ở nông thôn, đặc biệt là thanh niên nông thôn vẫn phải đi xuất khẩu lao động và đi tìm việc làm ở các tỉnh khác, tập trung vào các thành phố lớn, trong đó có Hà Nội. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng chỉ những gia đình khá giả mới có thể đi xuất khẩu lao động, còn những gia đình nghèo không có điều kiện để đóng góp chi phí đi xuất khẩu lao động (mỗi người đi xuất khẩu cần có một khoản tiền ít nhất từ 50 triệu đồng trở lên để chi vào tiền vé, tiền học nghề, học tiếng…). Những hộ gia đình nghèo chỉ có thể đi ra các tỉnh khác làm việc tại khu vực phi chính thức.
Xu thế di cư của thanh niên đến thành phố lớn và Hà Nội sẽ tăng không phải chỉ là nhận định riêng của những nhà quản lý xã hội ở những nơi thiếu đất canh tác, ít việc làm như huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang mà cả ở những nơi không thiếu việc làm như Thái Nguyên. Sở dĩ như vậy là do mặt bằng mức lương ở Thái Nguyên thấp hơn ở Hà Nội.
Theo nhận định của các nhà quản lý xã hội và các chủ cơ sở sản xuất nhỏ lẻ ở Hà Nội, trong tương lai các dòng di chuyển lao động sẽ tiếp tục chảy vào Hà Nội do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là thu nhập và việc làm. Hiện tượng di chuyển lao động là hiện tượng tất yếu của quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động. Trong những năm tới, Hà Nội vẫn là nơi có cầu lao động cao, thu hút lao động nông thôn.
Mặc dù dòng di dân đến Hà Nội vẫn tiếp tục tăng mạnh nhưng sẽ hướng tới tăng tỷ lệ người làm việc trong khu vực chính thức mà giảm dần tỷ lệ người làm việc tại khu vực phi chính thức. Thực tế, khi nền kinh tế phát triển thì khu vực kinh tế phi chính thức sẽ giảm đi, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ. Ví dụ như khi siêu thị lớn mọc lên nhiều, giá cả phải chăng thì người dân sẽ đến siêu thị mua hàng hóa mà không mua ở những chợ cóc nữa. Vì vậy, những người lao động di cư làm nghề buôn bán ở các chợ cóc không kiếm được việc làm phải tìm việc làm khác ở khu vực chính thức.
7. Kết luận
Nghiên cứu tổng quan các tài liệu sẵn có, phân tích số liệu Điều tra di dân quốc gia 2004, phân tích số liệu Điều tra về thanh niên di cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội năm 2009 cho thấy tình trạng di dân và di dân thanh niên đến thành thị nói chung và đến Hà Nội nói riêng ngày càng phổ biến. Đại bộ phận thanh niên di cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội có nguồn gốc tại các tỉnh lân cận Hà Nội thuộc đồng bằng Sông Hồng. Một số tỉnh xa Hà Nội có thanh niên di chuyển đến Hà Nội là Thanh Hóa và Nghệ An. Dòng di dân này còn diễn ra mạnh mẽ trong 3-5 năm tới. Bởi vì trong vài năm tới tốc độ đô thị hóa ở Hà Nội, đặc biệt là các quận mới hình thành như Hoàng Mai, Thanh Xuân, vùng ven đô như huyện Từ Liêm, Thanh Trì được đánh giá là sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Đa số thanh niên nông thôn trước khi di cư ra Hà Nội là học sinh hoặc làm nông nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu để thanh niên nông thôn di chuyển đến Hà Nội là nhằm tìm cơ hội nâng cao trình độ và thích được tự do thoát khỏi sự kiểm soát của bố mẹ.Trong nhóm thanh niên di cư làm việc tại khu vực phi chính thức tại Hà Nội, nhóm 20-24 tuổi nhiều gấp 2 lần nhóm 15-19 tuổi. Nam nhiều hơn nữ. Họ có trình độ học vấn chung tương đối cao, nhưng trình độ chuyên môn nghề nghiệp thấp. Nếu không được tiếp tục đào tạo thì khả năng di chuyển của họ sang khu vực kinh tế chính thức là rất thấp và khó có cơ hội thăng tiến. Đại bộ phận trong số họ tự quyết định hành vi di chuyển của mình. Mặc dù còn nhiều hạn chế, họ đã và đang trở thành nhân tố đóng góp vào nguồn nhân lực của Thủ đô trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa./.