Thành nhà Hồ và tiếng kêu oan của nàng Bình Khương
Tháng 6-2011, thành nhà Hồ được công nhận là Di sản Văn hoá thế giới. Từ đây, công trình vĩ đại này càng có điều kiện để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá lâu dài.
Công trình tuyệt đẹp
Từ rất lâu, nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài khi tới thăm thành nhà Hồ đã công nhận đây là công trình có tầm cỡ tiêu biểu cho trình độ kiến trúc của một dân tộc, có thể được coi là biểu tượng văn hoá sống động của dân tộc Việt Nam để giới thiệu với thế giới. Ông Lui Bedaxiơ, nhà nghiên cứu người Pháp, đánh giá: “Đây là một trong những tác phẩm tuyệt đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam trước đây”.
Thành nhà Hồ do Hồ Quý Ly (đoạt ngôi nhà Trần và làm vua từ năm 1400 đến năm 1401) cho xây dựng để dời đô từ Thăng Long (Hà Nội) về đây, chuẩn bị cho việc chống giặc Minh xâm lược. Cũng có ý kiến cho rằng, ông làm việc này là để mưu việc riêng, điều đó cũng chưa có căn cứ thuyết phục một cách xác đáng. Thành xây dựng năm 1937, còn có các tên gọi khác như thành Tây Đô, Tây Gi, An Tôn và Tây Kinh. Thành có hình chữ nhật, diện tích gần 1km 2. Hai mặt phía Bắc và phía Nam của thành dài trên 900m; hai mặt phía Đông và phái Tây dài trên 600m. Tường thành cao trung bình 5-6m; bề mặt rộng 7-8m, trong đó riêng phần bề mặt bằng đá rộng 3-4m. Nếu nhìn từ phía trong ra ngoài thì chỉ thấy tường thành bằng đất; còn nhìn từ ngoài vào trong thì toàn bộ tường thành là các phiến đá khổng lồ, được đẽo gọt tài tình, xếp chồng khít lên nhau với các kích thước dài từ 1,0m trở lên, cao từ 0,8m trở lên, bề ngang từ 1,0m trở lên. Phiến đá lớn nhất nằm ở dãy tường thành phía Đông, có chiều dài 6,2m, rộng 1,7m, nặng trên 30 tấn. Đó là phiến đá có sức thu hút rất lớn và du khách khi đến thăm thành không thể bỏ qua việc mục kích phiến đá này.
Cho đến nay, việc xây thành trong một thời gian kỷ lục là 3 tháng, với quy mô đồ sộ như thế, vẫn còn nhiều điều chưa được giải đáp thoả đáng nên có thể gây hồ nghi. Chỉ với các dụng cụ thô sơ như đục và rìu sắt, chỉ với các viên bi đá (Viên lớn thì bằng chiếc mũ cối, viên nhỏ thì bằng quả bưởi hoặc nắm tay) mà người xưa đã đục đẽo, vận chuyển, sắp xếp các phiến đá lớn thành một công trình tuyệt đẹp như thành nhà Hồ.
Đó quả là kì công sáng tạo. Sức hấp dẫn của công trình cho đến nay và mãi mãi về sau chính là ở những bí mật trong việc xây thành. Đứng trên tường thành nhìn xa, thử mường tượng địa chỉ các nguồn vật liệu mà người xưa đã dùng để xây thành: gần thì có núi An Tôn, Xuân Đài và Trác Phong cũng đã cách vị trí dựng thành từ 1 đến 3 kilômét; còn xa như núi Nhồi thì đến gần 10 kilômét. Vậy là chỉ trong 3 tháng, công trình đã hoàn tất, giống như chuyện xây thành trong câu chuyện cổ tích có sự trợ giúp của thần linh.
Thành nhà Hồ có 4 cổng. Cổng lớn nhất là cổng phía Nam và chính là cổng tiền (cổng phía trước, mặt chính của thành) gồm có 3 cửa. Cửa chính giữa cao 8m, rộng 5,8m. Hai cửa bên cao 7,8m, rộng 5.0m. Tất cả các cửa thành đều có hình vòm cuốn; các tảng đá được đẽo thành hình múi cam, chêm vào nhau rất khít, rất chắc chắn; đường mạch giữa các phiến đá rất nhỏ. Theo các nhà nghiên cứu thì thứ vữa dùng để trát mạch là hỗn hợp của giấy bản trộn mật với vôi và trấu, tạo thành một thứ vật liệu có tác dụng tương tự như xi măng của thời hiện đại.
Tiếng kêu oan của nàng Bình Khương
Đến thăm thành nhà Hồ, du khách còn được nghe một câu chuyện lưu truyền trong dân gian rất hấp dẫn về một số nhân vật và sự kiện lịch sử. Chính sử không nói đến việc Thượng tướng Trần Khát Chân (1370-1399) được giao trọng trách xây thành và việc ông bị giết hại là do bị tình nghi tham gia vào việc cùng Thái bảo Trần Hãng và 370 người khác định làm biến để lật đổ triều nhà Hồ. Dân gian vùng Vĩnh Lộc thì kể rằng: Trần Khát Chân được giao việc trông coi việc xây thành; khi xây các tường thành phía Nam, phía Bắc và phía Tây thì mọi chuyện diễn biến bình thường; chỉ đến khi xây tường phía Đông thì xảy ra sự cố. Tường thành phía Đông cứ xây xong lại đổ, giống hệt như chuyện An Dương Vương xây thành ốc (Loa Thành) bị tinh gà phá hoại. Cho đến nay, sau mấy trăm năm, dấu tích của tường thành phía Đông vẫn còn nguyên. Sau một vài lần xây lại thành mà vẫn không được, Trần Khát Chân bị Hồ Quý Ly nghi là mưu phản, sai người chém. Có điều mà Hồ Quý Ly rất hoảng sợ là khi đầu Trần Khát Chân rơi xuống đất, mắt ông vẫn mở trừng trừng không chịu nhắm. Cho đến khi bà Bình Khương, người vợ yêu quý của Trần Khát Chân, đến thành đập đầu kêu oan cho chồng thì mắt ông mới nhắm lại. Tảng đá nàng Bình Khương đập đầu vẫn còn được giữ lại cho đến nay, hiện nằm trong đền thờ Trần Khát Chân, ngay sát chân tường thành phía Đông, ở chính nơi mà Bình Khương đã đập đầu. Trên tảng đá có 3 dấu tích: Ở chính giữa là vết lõm khi trán của Bình Khương đập xuống, hai bên là dấu hai bàn tay của bà bấu chặt vào đá. Trong vết lõm của dấu đập đầu luôn luôn có một ít nước và điều kì lạ là không khi nào vũng nước nhỏ này cạn khô, giống như nỗi đau của nàng Bình Khương không bao giờ nguôi ngoai được. Theo người coi đền cho biết, những người dân trong làng mỗi khi bị nhức đầu, chóng mặt, cứ đến đền cầu xin hương hồn bà Bình Khương phù trợ rồi lấy ngón tay chấm nước trong vết lõm trên tảng đá, bôi vào chỗ đau nhức thì chỉ một vài phút sau sẽ hết đau nhức.
Thăm đền thờ Trần Khát Chân, du khách hi vọng cùng với việc di tích thành nhà Hồ được tu tạo thì ngôi đền này cũng sẽ được bảo tồn để giữ mãi chứng tích về một câu chuyện cảm động bởi tình chồng nghĩa vợ và một “án oan” chưa được giải. Đây là một câu chuyện bên lề về bí mật trong việc xây thành nhà Hồ.
Đến thăm thành nhà Hồ, hầu hết du khách cũng sẽ không bỏ lỡ việc tham khảo hai bài thơ chữ Hán còn được khắc trên bức tường thành phía Tây mà bài thơ nổi tiếng hơn là bài thơ “Hồ thành cổ tích” được sáng tác và khắc trên đá dưới triều vua Bảo Đại (1926-1945): “ Dấu Trần hưng thịnh hãy còn đây/ Mấy bức thành hoang ghép đá xây/ Buồn dựng lâu đài hao kiệt sức/ Hoa Nhai, núi Đốn phủ rêu dày”.
Bài thơ hàm ý lên án việc Hồ Quý Ly xây thành đã tiêu tốn nhiều nhân tài vật lực; và sâu xa hơn, còn là việc lên án ông dựng căn cứ để đoạt ngôi Trần. Tất nhiên, như đã nói trên đó chỉ là một giả thuyết.
Nếu dự án tái tạo khu vực cung điện trong thành nhà Hồ được thực thi thì chúng ta sẽ có dịp chiêm ngưỡng tổng thể kiến trúc tuyệt vời bên trong bức thành đá đã tồn tại trên 6 thế kỷ và sẽ còn mãi mãi với thời gian, chứng tỏ tài trí người Việt Nam rất đáng tự hào.