‘Thần dược’ từ cây cỏ của dân tộc
Bắt đầu từ suy nghĩ để tồn tại
Như hàng loạt các doanh nghiệp khác, Xí nghiệp dược phẩm Trung ương 25 cũng phải trải qua một quá trình mày mò tìm cách để tồn tại trong cơ chế mới. Trước năm 1996, sản phẩm chính của xí nghiệp là những mặt hàng tân dược, chủ yếu sản xuất theo những quy trình có sẵn. Để có thể phát triển trong cơ chế thị trường, hoà nhập với thị trường thế giới, từ năm 1997, Xí nghiệp dược phẩm Trung ương 25 đã đặc biệt chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học vì chỉ có vậy mới có thể tìm ra những sản phẩm mới phù hợp thị trường và đáp ứng sức khoẻ cộng đồng. Tại xí nghiệp, đội ngũ cán bộ khoa học nữ đông (trên 70%) lại rất cần mẫn, sâu sát công việc nên xí nghiệp đã đặc biệt chú trọng chọn lựa, tập hợp được nhiều chị em giỏi về chuyên môn, năng nổ nhiệt tình say mê nghiên cứu mặt hàng mới, cải tiến mặt hàng cũ. Với tư cách là lãnh đạo xí nghiệp, các chị Nguyễn Kim Dung - Thạc sĩ, giám đốc và dược sĩ Lâm Bạch Vân phó giám đốc, đã trở thành hạt nhân của phong trào này. Để giúp chị em có thể tập trung vào công việc nghiên cứu, sau một thời gian tính toán trăn trở, chị Kim Dung đã mạnh dạn thành lập một Pilôt để nghiên cứu, sản xuất thử,có phòng thí nghiệm hoá, hoá thực vật và sản xuất thử với nhiều thiết bị đủ đáp ứng yêu cầu. Trong Pilôt còn có phòng đọc với nhiều sách, tài liệu cũ, mới và cả máy tính truy cập Internet, trang Web giúp chị em cập nhật thông tin. Có thể nói đây là một mô hình mới chưa xí nghiệp, công ty nào thực hiện. Sáng kiến xây dựng Pilôt, sản xuất thử của chị Dung đã đem lại hiệu quả thiết thực và phù hợp với điều kiện hiện tại sản xuất theo tiêu chuẩn GMP. Pilôt đã trở thành trung tâm nghiên cứu của các nhà khoa học nữ với đầy đủ điều kiện, đồng thời cũng là nơi thu hút nhiều nhà khoa học tại các trường đại học đến cùng hợp tác. Chị Dung còn có sáng kiến thành lập hội đồng cố vấn khoa học gồm các giáo sư, tiến sĩ đầu ngành về bào chế dược liệu, công nghệ sinh học để giúp xí nghiệp, đặc biệt là giúp chị em trẻ nghiên cứu các phương pháp tối ưu cho sản phẩm. Chính nhờ sự giúp đỡ này mà tập thể các nhà khoa học nữ ở xí nghiệp đã liên tục có những đề tài, sáng kiến mới như đề tài về sản phẩm Centula-25, các sản phẩm Ninon, Garlic-25, Seroga, Tribeluus... Trong thực tế, nhiều chị em (kể cả nam giới) đã uống Centula 25 để trị gan nhiễm mỡ, qua đó giảm thể trọng tốt, nhiều chị em đã dùng để da mặt khỏi nám, đẹp da; nhiều người còn dùng sản phẩm Ninon để chống say tàu xe...
Trong ba năm qua, các chị đã có tới 53 đề tài trong đó có 39 đề tài khoa học tạo ra mặt hàng mới được giới bác sĩ và những người tiêu dùng chấp nhận. Năm 2003, xí nghiệp đã sản xuất và tiêu thụ trong nước trên 100 triệu sản phẩm và xuất khẩu trên 1,5 triệu USD.
Đến suy nghĩ vì người nghèo
Khi biết thị trường có nhu cầu dùng thuốc đông dược để phòng trị bệnh, các chị đã tập trung nghiên cứu các đề tài này. Vấn đề là phải tạo ra những sản phẩm chuyên dùng cho từng loại bệnh, không phải là chữa bách bệnh như một số thuốc đông y lâu nay thường khuyếch đại, mà phải đáp ứng thời gian điều trị có hiệu quả nhanh và không có hoặc ít tác dụng phụ. Tập thể các nhà khoa học nữ đã phối hợp chặt chẽ từ khâu tạo nguồn dược liệu đến nghiên cứu ban đầu, rồi đến sản phẩm thử và đưa vào sản xuất lớn công nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng nghiên cứu những sản phẩm đi từ dược liệu trong nước vì có như vậy những sản phẩm được sản xuất ra mới có thể phục vụ cho cả những bệnh nhân nghèo. Để làm được điều này, một mặt các chị mày mò tìm hiểu từ các bài thuốc cổ truyền, gia truyền rồi kết hợp với những thông tin khoa học mới để nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều bài thuốc và cách bào chế tạo ra những sản phẩm có hiệu quả điều trị cao. Mặc khác, các chị phối hợp với từng địa phương trồng dược liệu để tạo nguồn ổn định. Các chị đã phải xông xáo tới nhiều vùng xa để tìm nơi trồng, hướng dẫn người dân cách trồng và ký các hợp đồng thu mua nguyên liệu. Có thể nói, không có nơi nào có các loại dược liệu quý hiếm và có khả năng trồng được chúng mà các chị không đặt chân đến. Ở Ninh Thuận trồng cây tật lê, củ tỏi, lô hội..., vùng Bình Dương, Bình Phước trồng củ nghệ, cây nhàu..., tại Long An, Bến Tre trồng cây bụp giấm, cây ngũ sắc... còn tại vùng Long Hải, Phú Quốc, Vũng Tàu là nơi xí nghiệp đặt mua rắn biển... Việc làm này của các chị chẳng những giúp xí nghiệp có nguồn dược liệu ổn định, không bị nhiễm độc do phân bón, thuốc trừ sâu mà còn giúp các địa phương xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm thiết thực. Một năm, xí nghiệp thường mua từ 200.000 tấn đến 400.000 tấn dược liệu tại các địa phương với doanh số từ 18-30 tỷ đồng và nhờ vậy giúp hàng nghìn người dân (chủ yếu là phụ nữ) có thêm thu nhập. Và cũng chính từ những sáng kiến tạo ra những sản phẩm đông dược này mà các chị đã cung cấp cho thị trường nhiều loại thuốc có hiệu quả điều trị, giá rẻ, tiện dụng, phục vụ thiết thực cho nhân dân cả nước, đặc biệt là các vùng nông thôn, miền núi còn nhiều khó khăn trong thu nhập. Có thể nói hầu hết các sản phẩm do xí nghiệp sản xuất ra đều có giá thành rẻ hơn sản phẩm tân dược nhập khẩu tới 10-20 lần (thuốc rửa phụ khoa cho phụ nữ của Úc- Pháp giá từ 180.000-200.000đ/chai trong khi sản phẩm cùng công dụng của các chị chỉ có 10.000-15.000đ/chai, mặc dù đây cũng là sản phẩm được bào chế từ cây dầu tràm di thực từ Úc về trồng tại Việt Nam. Cho tới nay, các sản phẩm do các chị nghiên cứu tạo ra vẫn đang phát triển tốt.
Thay cho lời kết
Như vậy là chỉ với một tập thể không đông lắm nhưng lại tràn đầy lòng đam mê và tinh thần sáng tạo dám nghĩ, dám làm, các nhà khoa học nữ ở Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25 đã tạo nên những viên “thần dược” cho đời. Những sản phẩm của các chị tạo ra đã không những có uy tín trong nước mà còn được thị trường nhiều nước chấp nhận như Nhật Bản, Canada, Úc, Mỹ Thụy Sĩ, Mondova, Nga, Cuba, Lào, Myanma, Campuchia...
Nguồn: Những nhà khoa học nữ Việt Nam được giải Kovalevskaia