Tập trung nghiên cứu giống lúa thích nghi với biến đổi khí hậu
Những năm gần đây, thời tiết có nhiều diễn biến thất thường như khô hạn ngày càng khốc liệt, mực nước tại một số dòng sông cạn kiệt, dẫn tới tình trạng thiếu nước tưới cho sản xuất nông nghiệp. Điển hình là mực nước trên sông Mêkông xuống thấp làm cho vùng ĐBSCL gần như không có lũ, khiến vùng hạ lưu thiếu phù sa bồi đắp cho ruộng đồng, rửa phèn, vùi lấp rơm rạ, cuốn trôi mầm sâu bệnh...; làm giảm đáng kể lượng thủy sản, khiến bà con vùng lũ giảm nguồn thu nhập đáng kể. Ngoài ra, tình trạng này còn là một trong những nguyên nhân khiến nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền.
Nắng nóng, giá rét, bão lũ, triều cường diễn biến thất thường, mưa trái vụ liên tục làm bà con nông dân nhiều nơi bị thiệt hại do phải gieo sạ lúa nhiều lần. Diện tích đất sản xuất bị nhiễm mặn ngày càng nhiều. Những yếu tố trên làm thay đổi môi trường sinh thái, tạo áp lực về sâu hại và dịch bệnh, giảm năng suất cây trồng - vật nuôi, tăng chi phí đầu tư trong sản xuất.
Những ảnh hưởng đó có phải là hậu quả trực tiếp của BĐKH không, thưa ông?
Những ảnh hưởng trên là hậu quả của BĐKH, trước đây người ta chỉ dự đoán sẽ có BĐKH, nhưng bây giờ thì nó đã đến và đến với tốc độ nhanh hơn dự kiến.
Với vai trò của mình, xin ông cho biết, Viện Lúa ĐBSCL đã có biện pháp, kế hoạch như thế nào để tạo ra những giống lúa thích nghi với BĐKH?
Ảnh hưởng tiêu biểu của BĐKH đối với sản xuất lúa ở vùng ĐBSCL là ngập mặn, khô hạn, ngập úng và nắng nóng. Do vậy, Viện Lúa ĐBSCL đã có chủ trương nghiên cứu các giống lúa có khả năng thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết. Ngoài những đặc tính cơ bản mà trước nay viện vẫn nghiên cứu, đó là các giống lúa ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu được sâu bệnh thì hiện nay, tùy theo loại giống, chúng tôi bổ sung thêm các yếu tố khác để có thể chống chịu và giảm nhẹ thiệt hại do BĐKH.
Về giống lúa chống chịu mặn, lâu nay chúng ta chỉ có một vài giống lúa có thể chịu được độ mặn 1- 2% o, nay viện đang nghiên cứu để đưa ra một số dòng có thể chịu được độ mặn 5- 6% o, chịu khô hạn hoặc ngập úng đến vài tuần... Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật, cơ cấu mùa vụ, thời vụ sản xuất thích hợp nhằm giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai.
Để làm tốt công tác này, viện đang tăng cường hợp tác với các nhà khoa học quốc tế, các nhà khoa học chuyên ngành trong nước ở các viện, trường đại học trong việc lai tạo các giống lúa. Bước đầu, những giống lúa trên rất được bà con trông đợi. Thực tế qua nhiều vụ sản xuất thử, các giống lúa chống chịu ngập mặn, khô hạn, ngập úng đã cho năng suất và chất lượng không kém các giống lúa cao sản, ngắn ngày khác. Vì thế viện đang tiếp tục thanh lọc và khảo nghiệm trước khi đưa ra sản xuất đại trà.
Thời gian tới, viện sẽ tập trung nghiên cứu các lĩnh vực gì, thưa ông?
Về công tác chọn tạo giống lúa, ngoài việc ứng dụng lai tạo giữa các giống lúa truyền thống và lúa lai, Viện Lúa ĐBSCL sẽ đi sâu vào áp dụng công nghệ sinh học hiện đại để đưa ra các giống lúa ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu được sâu bệnh và quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu đưa ra các giống lúa chống chịu và giảm nhẹ thiệt hại do BĐKH.
Ngoài ra, viện còn quan tâm nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật như: đáp ứng cơ giới hóa đồng bộ, ứng dụng chế phẩm sinh học trong sản xuất, ứng dụng thâm canh tổng hợp (3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, cánh đồng 4 tốt), công nghệ sau thu hoạch, tiến tới sản xuất lúa theo hướng VietGAP, nâng cao chuỗi giá trị hạt gạo nhằm tăng thu nhập cho bà con nông dân.
Xin cảm ơn ông!








