Tạo dựng một chương trình đại dương và vùng bờ tổng hợp để ứng phó với biến đổi khí hậu
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), chỉ cần mực nước biển dâng cao 1 mét sẽ có khả năng gây ra khủng hoảng sinh thái, ảnh hưởng tới gần 12% diện tích và 11% dân số Việt Nam. Nếu mực nước biển dâng 5 mét, 16% đất ven biển bị ngập nước, đe dọa cuộc sống của 35% dân số và 35% GDP của đất nước. Những vấn đề lớn về đại dương hiện nay được nêu ra với một sự lo ngại đặc biệt như, tương lai của các đại dương trước tác động của hiện tượng ấm nóng trái đất làm cho các tảng băng trôi tan nhanh khiến mực nước biển dâng cao có nguy cơ nhấn chìm nhiều lãnh thổ đồng bằng, nhiều đảo và thậm chí nhấn chìm cả những quốc gia vùng trũng. Bên cạnh đó, nhiều hoạt động đánh bắt hải sản ồ ạt bất hợp pháp, vượt quá tầm kiểm soát của cơ quan chức năng, không những làm cho nguồn tài nguyên này cạn kiệt, mà môi trường của các vùng biển bị xuống cấp trầm trọng. Ngoài ra, hiện tượng khí thải từ các nước công nghiệp ngày càng làm cho các đại dương càng bị axít hóa…
Nhận định về tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là mực nước biển dâng cao và đồng bằng Sông Cửu Long, GS.TS. Trương Quang Học, trưởng ban Biến đổi khí hậu, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường cho biết: Việt Nam nằm trên bờ biển Thái Bình Dương. Vùng Châu Á Thái Bình Dương là một trong năm ổ bão dài 3260 km, hơn 3000 hòn đảo, được dự tính là một trong những nước phải chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong đó, nước biển dâng làm một trong những tác động nghiêm trọng nhất. Đối với Việt Nam , khi mực nước biển dâng, thì sẽ làm mất đi một vùng đất rộng lớn. Đó là các hệ sinh thái đất ngập nước của những đồng bằng rộng nhất của cả nước, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Đây là nơi sinh sống của cả một cộng đồng dân cư lâu đời, cái nôi của nền văn minh lúa nước, vùng có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất và các sinh cảnh tự nhiên của nhiều loài bản địa, bao gồm cả các vườn quốc gia, các khu bảo tồn, các khu dự trữ sinh quyển. Đồng bằng sông Cửu Long được xác định là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Vì đó là một đồng bằng trẻ, có địa hình thấp và phẳng, độ cao bình quân từ 1 đến 1,5 mét, rất thấp so với vùng nước biển. Đây cũng là vùng chịu tác động rất lớn của sự thay đổi về biên độ triều của mực nước biển. Nước biển dâng lên sẽ làm triều cường tiếp tục lên cao hơn. Bên cạnh đó, đồng bằng sông Cửu Long còn chịu tác động của lũ của sông Mêkông. Lũ tràn về, kết hợp với triều cường xuất hiện, làm mực nước ứ lại, khiến nhiều nơi bị ngập lụt. Đó chính là hiện tượng ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Diện tích đất bị xâm nhập mặn, bị khô cạn, nhiễm phèn ngày càng tăng. Hiện nay, trong toàn vùng, có khoảng 2,1 triệu ha đất bị nhiễm mặn và 1,6 triệu ha bị nhiễm phèn. Trong thời gian tới, dưới tác động của biến đổi khí hậu thì tất cả các hậu quả sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Sản lượng lương thực của đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị giảm. Các vùng chuyên canh cay an trái, nuôi trồng thủy sản thì chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. Vấn đề an ninh lương thực sẽ bị đe dọa.
Tại Hội nghị toàn cầu lần thứ 4 về Đại dương, vùng bờ và hải đảo, Bộ trưởng các vấn đề về biển và nghề cá của Indonesia, ông Numberi - cho rằng: "Chúng ta phải tập trung vào những thách thức cho đại dương hiện nay và sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Những biến động của các yếu tố này đều ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế của mọi quốc gia, đến an ninh lương thực. Cuộc sống con người vẫn luôn phụ thuộc vào hệ thống biển và đại dương lành mạnh. Do vậy phải tăng cường hợp tác, đẩy mạnh trao đổi thông tin và những sáng kiến, kinh nghiệm trong việc bảo vệ các đại dương để chúng ngày càng trong sạch và bền vững".
Và để tạo dựng một chương trình đại dương và vùng bờ biển tổng hợp, trước hết nên đưa ra các cảnh báo cụ thể để bảo đảm chức năng vốn có của đại dương trong việc ổn định đời sống trên trái đất bằng việc thông qua việc giảm tối đa các khí nhà kính trong một khoảng thời gian ngắn để tránh những hậu quả thảm khốc cho đại dương và các cộng đồng ven biển trên toàn thế giới. Nhấn mạnh những đóng góp tích cực từ đại dương trong giảm thiểu sự ấm lên toàn cầu, như sử dụng các hệ sinh thái ở vùng bờ biển (rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và rạn san hô…) để "nhấn chìm" cacbon tự nhiên; Sử dụng các thành tạo địa chất đáy biển sâu để thu giữ cacbon; Thực hiện các giải pháp giảm ô nhiễm không khí từ hoạt động của tàu thuyền; Phát triển các dạng năng lượng biển tái tạo (năng lượng gió, dòng chảy, thủy triều…).
Cung cấp tài chính đủ để hỗ trợ các thích ứng đối với các cộng đồng ven biển và trên các hải đảo - những người đang ở tuyến đầu chịu tác động của biến đổi khí hậu ở 173 quốc gia ven biển và quốc đảo. Dự toán hiện nay về chi phí thích ứng với biến đổi khí hậu ở các quốc gia ven biển và các quốc đảo là rất không thỏa đáng. Các chiến lược thích ứng trong các cộng đồng ven biển và quốc đảo cần khuyến khích các phương thức thích ứng dựa vào hệ sinh thái nhằm tăng cường khả năng phục hồi của những hệ sinh thái biển và ven biển chủ chốt, và được thực hiện thông qua các thể chế và quá trình quản lý đại dương và vùng tổng hợp ở các quy mô địa phương, quốc gia và khu vực. Ví dụ: Chương trình các hệ sinh thái biển lớn, chương trình các biển khu vực,…
Các nhà lãnh đạo trên thế giới nhấn mạnh vai trò trung tâm của đại dương trong giải quyết các vấn đề khí hậu và thiên tai khác mà các cộng đồng ven biển và trên hải đảo đã, đang và sẽ phải đối mặt.
Cộng đồng đại dương toàn cầu sẽ được kết nối trong một chương trình làm việc tổng thể liên quan tới khí hậu, đại dương và vùng bờ, bao gồm cả giảm thiểu, thích ứng, cấp tài chính, xây dựng năng lực và lôi cuốn cộng đồng để Các bên của UNFCCC xem xét trong các cuộc thương thảo hậu Copenhagen.
PGS. TS. Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho rằng: Để thực thi các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng đối với vùng duyên hải, biển và các đảo nhỏ ở các nước nghèo đang phát triển cần có các hành động tập thể, hành động đơn lẻ một nước sẽ không khác nào làm việc lấy đũa chống trời, cho dù sự chủ động là cần thiết. Trong thời gian tới, các quốc gia cần tăng cường nghiên cứu sử dụng đại dương như một giải pháp để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trên trái đất.








