Tăng cường công tác quản lý môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1. Đánh giá công tác quản lý môi trường ở Việt Nam trong thời gian qua
Những thành tựu đã đạt được
Trong thời gian qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Hệ thống cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện từng bước. Hệ thống văn bản pháp luật đã, đang và sẽ tiếp tục được xây dựng, bổ sung đồng bộ tạo nền tảng vững chắc, hành lang pháp lý đầy đủ để điều chỉnh, quản lý mọi hoạt động liên quan đến tài nguyên và môi trường trong xã hội. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường được tăng cường và hoàn thiện từ Trung ương đến cơ sở. Tổng cục môi trường được thành lập; lực lượng Cảnh sát môi trường được hình thành; Ủy ban bảo vệ môi trường các lưu vực sông lớn; tổ chức quản lý môi trường ở các bộ, ngành và địa phương, nhất là chi cục bảo vệ môi trường được thiết lập, bước đầu hoạt động có hiệu quả.
Ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường trong xã hội được nâng cao. Nhiều vụ việc lớn, nhiều vấn đề môi trường bức xúc, kéo dài được giải quyết dứt điểm.
Các giải pháp bảo vệ môi trường trong các dự án phát triển kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư thực hiện. Đã xuất hiện một số mô hình đô thị xanh, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất xanh, mô hình kinh tế sinh thái. Các ngành, lĩnh vực đã huy động được nhiều nguồn lực trong nước cũng như sự hỗ trợ của quốc tế, đồng thời từng bước chủ động trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Nhìn chung, các điều kiện cơ bản, thiết yếu làm tiền đề, tạo thế và lực cho công tác quản lý, bảo vệ môi trường thời gian qua đã được đáp ứng.
Thực trạng yếu kém về môi trường
Theo đánh giá của tổ chức môi trường thế giới và cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, môi trường Việt Nam đang bị xuống cấp trầm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, đời sống của nhân dân.
Ô nhiễm môi trường nước, không khí đang lan rộng, có nơi ở mức độ trầm trọng, không những tại các khu công nghiệp, khu đô thị dân cư đông đúc mà cả ở những vùng nông thôn.
Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, thiếu sự kiểm soát. Nguồn nước mặt, nước ngầm nhiều nơi bị suy thoái, cạn kiệt; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã gây ra triều cường, lũ lụt, mưa, bão với cường độ ngày càng lớn, diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường. Cùng với hiện tượng bất thường của thời tiết, thiên tai khiến nước ta hàng năm phải hứng chịu hàng chục cơn bão, mưa lũ làm chết hàng trăm người, gây thiệt hại hàng chục ngàn tỷ đồng. Thành quả xây dựng và phát triển của địa phương trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên tai có thể biến mất nếu không dự báo đúng và có biện pháp ứng phó kịp thời.
Những vấn đề nêu trên nếu không có giải pháp cấp thiết, thỏa đáng sẽ là lực cản lớn đối quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đe dọa nghiêm trọng sự phát triển bền vững của đất nước.
Nguyên nhân của những yếu kém trong công tác quản lý môi trường
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên có nhiều, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển kinh tế vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên; nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên môi trường. Trong khi đó, thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Hệ thống tổ chức cơ quan làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa phương. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém. Bên cạnh đó còn thiếu cương quyết và chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
2. Quan điểm của Đảng và mục tiêu đặt ra cho công tác quản lý môi trường
Phương hướng đầu tiên và quan trọng nhất được nhắc tới trong Cương lĩnh xây dựng nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”.
Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thể hiện rõ quan điểm của Đảng:
- Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân;
- Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững;
- Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với tự nhiên của cha ông ta;
- Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu tới môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên;
- Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Mục tiêu đặt ra cho công tác quản lý môi trường đến năm 2020:
Không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khỏe nhân dân, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước.
Cụ thể: Phòng ngừa ô nhiễm; bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học; cải thiện môi trường; hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm; bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao; đáp ứng các yêu cầu về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hóa.
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý môi trường đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội nhanh, mạnh và bền vững
Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh, mạnh và bền vững đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, công tác quản lý môi trường trong thời gian tới có ý nghĩa sống còn, đồng thời là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm và cần những giải pháp mang tính đột phá.
Thứ nhất, cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình “tăng trưởng xanh” đã được đề cập trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh. Đây là động lực chủ yêu để thúc đẩy quá trình cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước ta. Lựa chọn mô hình tăng trưởng bền vững hơn. Học tập kinh nghiệm xây dựng nền “kinh tế xanh” của các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước đang phát triển.
Thứ hai, đẩy mạnh cơ chế kinh tế hóa, chuyển đổi quyết liệt cơ chế nặng về “bao cấp”, “xin-cho” trong quản lý tài nguyên và môi trường sang cơ chế thị trường, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, nâng cao hơn nữa sự đóng góp của ngành tài nguyên và môi trường trong nền kinh tế quốc dân. Tài nguyên thiên nhiên chỉ mang lại lợi ích to ớn cho đất nước khi chúng ta có kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý, bền vững.
Thứ ba, khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành tiêu hao nhiều năng lượng, không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Thực hiện nghiêm pháp luật về bảo vệ môi trường và các giải pháp đồng bộ để có thể xử lý triệt để gần 4.000 cơ sở đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; tiếp tục đầu tư để xử lý ô nhiễm môi trường cho hơn 1.500 làng nghề, hơn 200 khu công nghiệp trên cả nước; kiểm soát việc xả nước thải ra các lưu vực sông chính và khí thải tại các khu vực nhạy cảm; tránh biến nước ta thành bãi thải công nghiệp của các nước phát triển.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành; xây dựng bộ Luật môi trường mới trên cơ sở đánh giá tác động của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 vào thời gian sớm nhất. Trước mắt, cần bổ sung, hoàn thiện các quy định và cơ chế quản lý về môi trường khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, cụm công nghiệp, làng nghề, các lưu vực sông, môi trường nông thôn, miền núi, biển và hải đảo.
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường cần tiếp tục được đẩy mạnh; đặc biệt, cần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước. Cần có sự phối hợp tốt hơn nữa giữa các cấp, các ngành và có sự giám sát chặt chẽ của nhân dân trong quá trình thanh tra, kiểm tra.
Thứ năm, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đưa ra những chiến lược cụ thể về công tác quy hoạch. Vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng phải được thể hiện rõ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng vùng lãnh thổ, từng ngành, từng địa phương, trong từng dự án, với tầm nhìn dài hạn, thậm chí có những quy hoạch phải tính đến 50 năm, 100 năm tới.
Theo dự báo, Việt Nam là một trong số những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Theo kịch bản biến đổi khí hậu tại Việt Nam, nếu mực nước biển dâng cao 1 m, sẽ có khoảng trên 15.000 km2 tại đồng bằng sông Cửu Long bị ngập, trong đó thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập khoảng 470 km2; 10-12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP. Thiên tai, bão, lũ, hạn hán sẽ gia tăng về quy mô và mức độ khốc liệt. Việt Nam đã có Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cần sớm xây dựng Chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng phù hợp với từng gia đoạn phát triển của đất nước, theo hướng thích ứng để sống chung với biến đổi khí hậu, bảo đảm phát triển kinh tế-xã hội và cuộc sống, an sinh của nhân dân.
Ở tầm chiến lược, Việt Nam cần nhận thức rõ vấn đề an ninh môi trường của nước ta trước những đe dọa nghiêm trọng bởi các yếu tố như biến đổi khí hậu, sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng; những mâu thuẫn phát sinh trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng như vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới và sự xâm hại của sinh vật ngoại lai. Ngoài ra, nguồn nước của các dòng sông lớn bị khống chế từ nước ngoài, mức độ ô nhiễm các dòng sông tăng nhanh… đều tác động đến an ninh nguồn nước và hậu quả chưa thể lường hết được. Vì vậy, an ninh môi trường nếu không được xử lý thỏa đáng sẽ gây tác động xấu đến mọi mặt kinh tế-xã hội của đất nước.
Thứ sáu, tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường theo hướng hiện đại, đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ ngày càng phức tạp, nặng nề, đáp ứng yêu cầu đề ra. Tạo cơ chế phối hợp, hợp tác và huy động mọi thành phần kinh tế, toàn xã hội tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Lực lượng quản lý môi trường ở nước ta có khoảng 10 người/1 triệu dân, thấp xa so với các nước như Trung Quốc là 20 người, thái Lan 30 người, Malaixia là 100 người. Việc tăng cường lực lượng cán bộ quản lý môi trường nói chung, đặc biệt ở địa phương, cơ sở là hết sức cần thiết.
Xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường và tiếp tục nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, phát huy tối đa vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể trong các phong trào về bảo vệ môi trường.
Thứ bảy, nâng cao vai trò và huy động nguồn lực của cộng đồng trong nước; xây dựng chiến lược vận động các nước, các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ Việt Nam ưu tiên giải quyết các vấn đề về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng nhằm tranh thủ các nguồn lực này phục vụ mục tiêu phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Các bộ, ngành và địa phương cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường để tiếp tục vận động, mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu./.








