Tản mạn về năm Mùi
Ngôn ngữ con người biến đổi theo thời gian (âm cổ và âm hiện đại) và không gian (phương ngữ, thổ ngữ, ngữ hệ), thành ra phần này sẽ bàn về các dữ kiện minh xác kết quả trên. Đây cũng là mục đích chính của loạt bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp", phần này tiếp theo bài "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp – Mùi/Vị - *mjei – Dê (phần 15)". Các bài viết sau nhưng cùng một chủ đề sẽ đánh số với mẫu tự A, B, C… Hi vọng loạt bài này gợi ý và tạo thêm động lực cho người đọc tìm hiểu thêm về tiếng Việt và những liên hệ ngôn ngữ thật thú vị. Các chữ viết tắt trong bài này là LM (Linh Mục), BK (Bắc Kinh), TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161). Dấu hoa thị * dùng để chỉ âm cổ phục nguyên (reconstructed sound). Không nên lầm số thứ tự chỉ phụ chú và thanh điệu sau vần.
Trong Thập Nhị Chi (12 con giáp), chi thứ 8 là chi Mùi 未, đáng lẽ phải đọc là Vị theo các cách đọc của vận thư (chính thống hay "chuẩn").
1. Các cách đọc chữ Vị 未
Chữ mùi/vị 未(thanh mẫu minh 明vận mẫu vi 微khứ thanh, hợp khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
無沸切,音味vô phí thiết, âm vị (TVGT, ĐV, QV, TV, LT, VH, CV, LTCN 六書正擶, TVi, CTT, TĐTAT 重訂直音篇) - TVi ghi phì khứ thanh 肥去聲, CTT ghi vi khứ thanh 微去聲
亡貴切vong quý thiết (NT, TTTH)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là wèi (viết theo hệ thống pinyin hiện đại) so với giọng Quảng Đông mei6 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] wi5 wui5 [沙头角腔] wui5 [客英字典] vui5 mui5 [陆丰腔] mui6 [东莞腔] mui5 [宝安腔] mui3 [客语拼音字汇] vui4 [海陆丰腔] wui6 [台湾四县腔] wi5 潮州话:bhi7(bī) bhuê7(būe) - giọng Mân Nam/Đài Loan là bi7, tiếng Nhật là mi bi và tiếng Hàn là mi. Tiếng Saek 1 cổ là muy4 so với tiếng Saek hiện đại là mame4 (như tiếng Thái). Tiếng Lào là moth so với tiếng Dioi là fat1, tiếng Ahom là mut và tiếng Tây Tạng là lug. Một dạng âm cổ phục nguyên của Mùi là *m w ei. Thật ra âm mùi đã hiện diện trong cách đọc chữ 味- tiếng Việt đã duy trì cách đọc cổ hơn của hai chữ 味và 未- đều đọc là mùi. Cụ Thiều Chửu 2 cũng từng ghi rằng Vị ‘thường quen đọc là chữ Mùi’(quen đọc ở đây hàm ý là theo thói quen từ xưa đến nay, hay là một dạng âm cổ hơn).
2. Các cách đọc chữ 味
Chữ mùi/vị 味(thanh mẫu minh 明vận mẫu vi 微khứ thanh, hợp khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
無沸切,音未vô phí thiết, âm vị (TVGT, ĐV, QV, TV, VH, CV, LT, TVi)
莫拜切,音韎mạc bái thiết, âm muội(TV, LT)
武沸切vũ phí thiết (NT, TTTH)
莫珮切,音妹mạc bội thiết, âm muội(KH)
亡曷反,音沫vong hạt phản, âm mạt (ThVn 釋文)
莫葛切mạc cát thiết (LT)
無貴切,音未vô quý thiết, âm vị (CTT)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là wèi so với giọng Quảng Đông mei6 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] mi5 [宝安腔] mui3 [客英字典] mui3 mi5 [东莞腔] mui5 [客语拼音字汇] mi4 mui4 [海陆丰腔] mui6 [沙头角腔] mui5 [台湾四县腔] mui5 [陆丰腔] mui6 潮州话:bhi7 - - giọng Mân Nam/Đài Loan là bi7, tiếng Nhật là mi bi và tiếng Hàn là mi. Ta thấy từ các âm đọc trên, tiếng Việt Mùi là gần với âm giọng Mân Nam nhất. Liên hệ giữa tiếng Hẹ (Khách Gia Ngữ/Hakka)/ Mân Việtvà Lạc Việttheo dòng thời gian (và suốt chiều dầy lịch sử dựng nước) rất đáng chú ý, nhưng không nằm trong chủ đề bài viết này. Ngoài mùi viết bằng bộ khẩu với chữ Vị, các chữ 3 妹昧眛沬 ... đều đọc là muội.
Bài viết trước đây về âm Mùi (xem nguồn trích ở mục 4) đã giải thích biến âm m > v, dựa vào các dạng kí âm từ tiếng Phạn như नमनnam-ana trở thành Nam Mô hay Nam Vô 南無, Mañjuśrī অবলোকিতেশ্বরtrở thành Văn Thù Sư Lợi 文殊師利... Cũng như các tương quan vô 無mựa (VBL), vạn 萬muôn, man (VBL) ...v.v... Ngoài ra, các cách đọc phiên thiết bên trên cho thấy tương quan giữa nguyên âm trước/nhỏ i và nguyên âm sau/lớn ơ/u. Tóm lại, ta có cơ sở rất vững chắc để kết luận âm Mùi là âm cổ hơn của Vị. Không những thế, phạm trù nghĩa của Mùi tiếng Việt chỉ giới hạn trong các ý chỉ 12 con giáp hay hơi ngửi thấy, nhưng không hàm ý chưa như cách dùng vị lai (chưa đến), vị tường (chưa rõ), vị hôn phu (chồng chưa cưới), vị thành niên (chưa đến tuổi thành nhân) - không thấy ai dùng *mùi lai, *mùi tường, *mùi hôn phu, *mùi thành niên ... Cách dùng trên tương ứng với nghĩa cổ nhất của Mùi (chỉ thời gian/Thập Nhị Chi) và Vị (phó từ, nghĩa là không, chưa).
3. Các dạng biến âm và kị (tị) huý
Thử đặt trường hợp một gia đình có người tên chữ là Mùi và viết là 未, các thế hệ sau nếu có dùng chữ này sẽ đọc là Vị chẳng hạn (âm đọc mới hơn). Mùi và Vị chỉ là hai dạng (biến âm) khác nhau của cùng một gốc hay cùng ngữ căn, từ đó ta có một khả năng giải thích hiện tượng kỵ huý. Đây chỉ là ‘quân bằng lại’ cách hiểu tại sao lại có sự khác biệt giữa các cách đọc khác nhau. Một trường hợp liên hệ là chữ Mậu 戊, âm BK bây giờ là wù (tương ứng với vụ HV), nhưng các giọng đọc phương Nam TQ và HV đều vẫn còn duy trì âm cổ hơn là Mậu. Đến nỗi vua nhà Lương đã ra lệnh bắt phải đổi Mậu thành Vũ 武(wǔ BK bây giờ) để tránh phạm huý 4 vào năm Khai Bình nguyên niên (907, theo Ngũ Đại Sử). Khác với GS Nguyễn Tài Cẩn, và dựa vào các phương ngữ Nam TQ (Quảng Đông, Đông Hoàn Khang ...), người viết cho rằng âm Mậu đã hiện diện cùng lúc với âm Vũ (âm mới hơn) chứ không phải chờ đến sắc lệnh của vua nhà Lương! - Xem chi tiết trang http://www.zdic.net/z/1a/js/620A.htm . Thành ra vấn đề kỵ huý phần nào chỉ là 'chính thức hoá' cách đọc của quần chúng (và địa phương) từ chính quyền trung ương đương thời mà thôi, phản ánh khuynh hướng 'ý dân là ý trời’ ( Vox populi, vox dei - tục ngữ La Tinh cổ đại). Ngoài ra, âm cổ hơn của Vũ là múa vẫn còn được bảo lưu trong tiếng Việt.
Một trường hợp kỵ huý khác cũng đáng chú ý là danh nhân Ngô Thì Nhậm 5 (1746-1803): chữ Hán viết là 吳時壬hay 吳時任. Ngô Thì Nhậm có thể đọc là Ngô Thời Nhậm hay Ngô Thời Nhiệm vì kỵ huý vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm). Từ thời VBL (1651) ta đã có các âm nhiệm và nhậm, thím (thẩm), tim (tâm), tìm (tầm), kim (châm) ... So với các giọng Quảng Đông đọc Nhậm là jam4, jam6, các giọng Mân Nam jim5 ngim5 rim6 ngim6 ... Thành ra, Nhiệm là một dạng âm cổ hơn so với Nhậm - âm cổ phục nguyên của Nhậm là *njim - xem thêm chi tiết về các cách đọc của Nhậm trang này chẳng hạn http://www.zdic.net/z/15/js/4EFB.htm .
Tóm tắt cho phần này, cách gọi Mùi là một dữ kiện ngôn ngữ quan trọng để tìm lại âm cổ hơn của Vị (cách đọc 'chuẩn/hàn lâm'). Đi xa hơn nữa là khả năng nhái lại âm thanh phát ra từ loài thú này (âm *m w ei > me be) hay tượng thanh để cho ra các dạng Mùi, Vị, bê, dê ... Các dạng này vẫn còn tồn tại trong các ngôn ngữ dân tộc ở Nam TQ, âm Hán Việt và tiếng Việt, khiến ta phải đặt lại vấn đề về nguồn gốc tên gọi 12 con giáp; không phải từ TQ mà ra như nhiều người lầm tưởng qua bao ngàn năm nay và từ Đông sang Tây! Sự tiến hoá từ nghĩa cụ thể (tiếng động vật kêu, tên gọi loài vật) cho đến cách ghi thời gian (năm, tháng, ngày, giờ) và phó từ phủ định (trừu tượng) là một quá trình rất tự nhiên và dễ hiểu. Những cống hiến âm thầm này vào văn hoá Hán đã đến lúc cần được đưa ra ánh sáng qua các lăng kính ngôn ngữ, lịch sử và khoa học khách quan. Một hệ luận từ các dữ kiện ngôn ngữ trong bài này là hiện tượng kị huý, có thể hiểu được phần nào từ khuynh hướng quân bằng lại sự biến hoá rất bình thường của ngôn ngữ loài người (âm cổ và âm mới hơn).
4. Phụ chú và phê bình thêm
Để cho liên tục, bạn đọc có thể tham khảo loạt bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" trên các trang mạng như http://newvietart.com/Mui-Vi-1.pdf hay http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail&id=2198 …v.v…
Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để bạnđọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác.
1) Tiếng Saek (ngôn ngữ của dân tộc Saek) còn lưu lại trong vài làng ở Đông Bắc Thái Lan. Tiếng Saek thuộc vào họ Tai-Kadai (mà tiếng Thái được nhiều người biết đến nhiều nhất). Bây giờ thì dân tộc Saek hầu như đồng hoá hoàn toàn vào xã hội Thái. Xem thêm bảng từ vựng tiếng Saek của William J. Gedney: "The Saek Language: Glossary, Texts and Translations" Michigan Papers on South and Southeast Asia no. 41 ...v.v...
2) Thiều Chửu 1942 "Hán Việt Tự Điển" tái bản nhiều lần - như từ NXB Đà Nẵng (2005). Tự điển Việt-Hoa-Pháp/Dictionnaire vietnamien-chinois-francais của LM Gustave Hue (1937) cũng ghi Mùi là '... prononciation annamite du caractère Vị ...'.
3) Có khoảng 15 chữ Hán - thường là chữ hiếm - dùng chữ Mùi làm thành phần hài thanh. Có 8 chữ đọc là muội, 3 chữ vừa đọc là muội vừa đọc là vị, các chữ còn lại đọc là Vị.
4) Nguyễn Tài Cẩn 1985 "Một số vấn đề về chữ Nôm" NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp (Hà Nội, 1985 – trang 22/110). Ảnh bên dưới chụp một phần từ Tự Vị (1615) cho thấy chữ 戊đọc là 莫侯切,音茂mạc hầu thiết âm mậu ... Nhưng sau tị (huý) nên đọc thành Vũ …v.v… Thật ra một dạng âm cổ của Vũ là *mĭu, tiếng Việt vẫn còn duy trì âm múa; so sánh với các tương quan Mùi Vị, múa vũ, vu mo (đồng cốt), vụ mù (sương), vọng mong, võng mạng ...
Truyền thống bảo thủ phong kiến cộng hưởng với khuynh hướng 'quân bằng lại' ngôn ngữ làm phép kị huý trở thành một yếu tố văn hoá đáng kể.
5) Một số âm Hán Việt cũng cho thấy tương quan của vần -amvà -iêmnhư chữ hàm 嗛(hộ giam thiết 戸監切/ĐV, 乎監切,音銜hồ giam thiết, âm hàm/TV) còn có thể đọc là khiểm (苦蕈切,音歉khổ khuấn thiết, âm khiểm/QV/TV/CV) ... Hay chữ sam 摻(sở hàm thiết 所咸切/ĐV, sư hàm thiết 師咸切/TV/VH) còn có thể đọc là tiêm (tư liêm thiết, âm tiêm 思廉切,音纖/TV/VH/CV) ...