Tại sao thần đồng Việt Nam ít người trở thành nhân tài?
Theo tôi, nguyên nhân của nghịch lý trên nằm ở các khâu sau đây:
Cách bồi dường bằng các trường chuyên chỉ có thể tạo nên các giải nhưng khó đào tạo nên nhân tài. Tôi chỉ dẫn chứng về toán học .
Đề thi toán quốc tế không thử thách năng lực phát hiện vấn đề. Các đề rất khó, lắt léo, đánh đố nhưng là những vấn đề do người khác nêu ra cho thí sinh giải quyết. Giải quyết xong, nếu không ai nêu vấn đề mới thì dừng ở đó. Muốn sáng tạo khoa học dồi dào thì phải có khả năng tạo ra dây chuyền: phát hiện – giải quyết – lại phát hiện nữa – lại giải quyết nữa... Chỉ biết giải quyết thì không năng động được vì phải ngồi chờ người khác phát hiện vấn đề cho. Cách thi toán quốc tế đã ảnh hưởng đến cách dạy ở các lớp chuyên toán của ta. Các nhà toán học Pháp sang thăm các lớp chuyên toán của ta đều có ý kiến là ta đào tạo thợ toán chứ không phải các nhà toán học. Tôi chia sẻ ý kiến đó. Pháp vẫn tham gia thi toán quốc tế nhưng không luyện thi như ta nên học sinh họ ít được giải mặc dù họ vẫn là cường quốc về toán học.
Về nội dung và cách học ở các lớp chuyên thì có mấy vần đề sau đây cần xem xét:
- Học sinh giỏi môn nào thì có lớp chuyên môn đó mà không học chung với học sinh giỏi môn khác là một thiệt thòi vì giữa các môn học khác nhau, ngay khi không có quan hệ về kiến thức, thì cũng có quan hệ về tư duy và quan hệ về nhân cách; ví dụ, muốn sáng tạo toán học thì cũng phải trau dồi tư duy hình tượng mà một học sinh giỏi toán có thể học tập được ở một số học sinh giỏi văn. Ở các lớp chuyên toán của ta, hầu như chỉ thấy vận dụng tư duy lôgic để giải những bài toán khó, ít có yêu cầu phát hiện vấn đề rồi giải quyết mà tìm ra cái mới; tư duy biện chứng và tư duy hình tượng ít được vận dụng. Chính cách học “chuyên” đã lái học sinh vào mục đích hạn hẹp là giật giải, ít mở rộng tầm nhìn. Ngày xưa, một số học sinh có thể gọi là thần đồng như Nguyễn Đình Thi đã là tác giả của nhiều cuốn sách về triết học. Ngày nay, ta coi nhẹ triết học, dù là triết học duy vật biện chứng là triết học của chế độ ta, là triết học của sự sáng tạo, không dạy ở phổ thông (kể cả phổ thông chuyên), dạy rất dở ở đại học. Mà triết học duy vật biện chứng ngày nay được thế giới thừa nhận là cơ sở triết học của sáng tạo học (creatology).
- Đối với học sinh giỏi thì việc lên lớp giảng có thể bớt đi rất nhiều (họ có khả năng tự đọc sách giáo khoa mà hiểu), cái họ cần ở thầy giáo là cách học thông minh sáng tạo thường ít khi viết ra mà chỉ trao đổi miệng chủ yếu là tiếp xúc cá biệt. Cho nên bồi dưỡng năng khiếu phải lấy bồi dưỡng cá biệt là chính, chứ không phải tập hợp thành lớp riêng. Cứ để học chung rồi giao trách nhiệm bồi dưỡng cá biệt cho các thầy và có một số chế độ riêng cho số học sinh này như được miễn lên lớp một số tiết để có thì giờ tập làm đề tài khoa học giúp đỡ học sinh kém, giao lưu với những học sinh giỏi về các môn khác.
Về sử dụng sau khi đã thành đạt thì cần ưu tiên việc tạo điều kiện và môi trường làm việc. Điều kiện và môi trường cho các trí thức ở nước ta chưa tốt: thư viện và các trang thiết bị yếu kém, ví dụ anh Phan Dũng, tiến sĩ khoa học về vật lý thực nghiệm ở Liên Xô về nhưng chả làm được gì về vật lý thực nghiệm vì thiếu trang thiết bị.Lại còn vấn đề không khí làm việc và vấn đề “thủ trưởng”. May mà gặp được thủ trưởng biết dùng người tài, không may thì gặp thủ trưởng đố kỵ với người tài, chỉ sợ người tài làm lung lay chiếc ghế của mình. Việc chọn người quản lý, người thủ trưởng trong lĩnh vực giáo dục và khoa học là rất quan trọng.
Hiện nay, các địa phương đã sôi nổi bàn về chính sách chiêu hiền đãi sĩ, nhưng chỉ mới là bước đầu. Ngay Hà Nội mới chú ý đến thủ khoa tốt nghiệp đại học trong hai năm 2003-2004, nhưng lại đề cao họ quá bằng cách lưu danh họ tại Văn Miếu khiến cho dư luận không đồng tình như Thời báo tài chính đã nêu lên trong nhiều số báo (tháng 9-10/2004). Còn đối với các trí thức đã công tác nhiều năm thì chưa thấy thành phố có chính sách gì, chẳng lẽ bằng lòng với hiện trạng.
Nhiều địa phương mới bước đầu thu hút những người có bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ bằng một khoản thù lao khi về địa phương nhận công tác, chưa nói gì đến điều kiện và môi trường làm việc là cái thân thiết nhất đối với những nhân tài chân chính. Hiện nay, đang cần một chính sách chung cho cả nước để tránh tình trạng “nước chảy chỗ trũng”, những nơi đã thuận lợi (như các thành phố lớn) thì cứ tiếp tục thuận lợi, nơi vốn có nhiều khó khăn (như miền núi) thì cứ tiếp tục khó khăn. Nên có một chính sách “chuyên gia nội địa” của Nhà nước, trên cơ sở đó các địa phương ký kết với nhau để trao đổi chuyên gia theo nhiều chế độ linh hoạt (dài hạn, trung hạn, ngắn hạn) để chuyên gia địa phương này có thể đến địa phương khác công tác từng thời gian, chẳng hạn như một giáo sư ở tỉnh A đến thỉnh giảng ở tỉnh B bằng các phương tiện thông tin liên lạc. Hiện nay, đã có thuận lợi hơn trước nhiều lắm, như giao thông liên lạc bây giờ đã tiến bộ nhiều. Phải tận dụng công nghệ thông tin để giao lưu.
Lương của trí thức làm việc cho nhà nước hiện nay là quá thấp so với ngay trong nước. Một giáo sư làm việc cho nhà nước lương khoảng 2 triệu thì ra trường dân lập có thể được lương 5 triệu. Ở nhiều gia đình, có tình hình là nhiều khi bố mẹ là trí thức lớn, làm việc suốt đời nhưng lương thấp hơn đứa con út mới ra trường, nhưng làm việc cho một doanh nghiệp tư nhân. Hàm “giáo sư” của giáo dục ngang với hàm “tướng” trong quân đội. Nhưng giáo sư đầu ngành nổi tiếng cả trong, ngoài nước đáng lẽ lương phải tương đương với đại tướng thì lương chỉ bằng thượng tá. Có gia đình ông anh là giáo sư tột bậc nhưng lương thua ông em chỉ là đại tá. Quốc phòng thì quan trọng thật nhưng Đảng rất chí lý khi coi “giáo dục và khoa học là quốc sách hàng đầu”.
Ngoài ra, sự đối xử về tinh thần cũng có vấn đề. Trừ một số rất ít giáo sư rất cao tuổi, còn những giáo sư nổi tiếng, dưới 80 tuổi, công tác đã ngót 60 năm cũng chỉ được Huân chương Lao động hạng Nhất.
Nói như trên, không có nghĩa là đổ hết trách nhiệm cho quản lý, lãnh đạo. Bản thân người trí thức cũng có trách nhiệm. Nên nhớ lời của Mác: “Không có con đường nào thênh thang để tiến đến đỉnh cao của khoa học”. Dù có là thần đồng thì cũng phải lao tâm, khổ tứ ghê gớm lắm mới có được những phát minh, sáng tạo lớn. Phát minh, sáng tạo là bước nhảy vọt sau khi đã tích luỹ tiệm tiến đủ độ của nó, chưa đủ độ thì không có phát minh. Các thần đồng của chúng ta, khi đã thành đạt, có được học vị cao, vào đời, tuy không dám vơ đũa cả nắm, nhưng nói chung, thì tư tưởng bị phân tán vào các việc đời thường nên khó trở thành nhân tài. Lỗi vừa ở họ, vừa ở điều kiện và môi trường. Lỗi ở họ vì họ chưa phải những người lấy sáng tạo và cống hiến làm hạnh phúc nhất, không bận tâm đến tiền tài, địa vị, danh vọng. Người Việt Nam thông minh bẩm sinh không kém người các nước phát triển. Điều đó đã được thử thách qua hai cuộc kháng chiến thắng lợi chống hai đế quốc to. Nhưng thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó khăn hơn thắng trong chiến tranh.Phải đổi mới tư duy mạnh mẽ hơn nữa trong cả nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.