Tài nguyên nước và những tồn tại trong công tác quản lý
Hậu quả của nó làm suy thoái tài nguyên nước (sự suy giảm về lượng và chất lượng của nguồn nước). Sự suy giảm về lượng được thể hiện bằng sự giảm lưu lượng dòng chảy, lượng mưa, hạ thấp dần mực nước, công suất khai thác theo thời gian. Sự suy giảm về chất thể hiện ở sự gia tăng nhiễm bẩn và nhiễm mặn, tức là sự tăng dần các thông số đánh giá chất lượng nước vượt qui chuẩn cho phép.
Theo kết quả đo quan trắc liên tục trên sông Hậu của Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ, trong khoảng thời gian từ năm 2000 – 2008, mực nước cao nhất tại Tân Châu, khu vực đầu nguồn tiếp nhận sông Mekong thuộc Việt Nam, bị thấp xuống gần 0,8m. Vào mùa khô các năm 2006, 2007 và 2008 lưu lượng nước của sông Hậu chỉ còn khoảng 800m 3/giây thay vì 1.250m 3/giây như trước đây 30 năm. Riêng nước dưới đất, trong những năm gần đây, mực nước tĩnh luôn hạ thấp, dù vẫn còn nằm trong mực nước hạ thấp cho phép.
Chất lượng nước mặt sông Hậu được quan trắc 04 lần/năm đối với các điểm cố định. Có 07 chỉ tiêu quan trắc là pH, COD, SS, NO 2-, Fe tổng, NH +4và Coliform. Phần lớn các thông số quan trắc môi trường nước mặt sông Hậu đều vượt mức giá trị giới hạn cho phép cột A1 (sử dụng tốt cho mục đích nước sinh hoạt) theo QCVN 08: 2008/BTMNT ngoại trừ pH. Thêm vào đó, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao làm cho “ranh ngăn mặn” dịch chuyển sâu vào đất liền, gây nhiễm mặn, làm suy thoái nguồn nước và đe dọa cấp nước sinh hoạt đô thị. Hiện nay sự xâm nhập mặn đã tiến sâu vào vùng Hậu Giang, ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất của người dân rất lớn. Tất cả hệ lụy trên là do:
Nguồn thải từ các khu đô thị
Lượng nước thải của dân thành phố khoảng 1.200m 3/ngày đêm, đều chưa có hệ thống xử lý tập trung, đổ trực tiếp ra kênh rạch xung quanh gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nước mặt. Hiện thành phố đang đầu tư cải tạo, thu gom để xử lý.
Nguồn thải từ khu công nghiệp (KCN)
Các khu công nghiệp nằm kế cận sông Hậu, nhưng các KCN này chưa có hệ thống xử lý nước thải xả trực tiếp ra sông Hậu. Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn nguồn nước mặt sông Hậu.
Nguồn thải từ chất thải rắn
Thu gom và xử lý chất thải rắn ở thành phố Cần Thơ chưa có quy trình kĩ thuật hợp lý và chưa có biệm pháp quản lý tốt. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn toàn thành phố chỉ khoảng 55% (Công ty Công trình Đô thị thu gom), phần còn lại người dân tự thải ra môi trường nhất là các khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, các cơ sở y tế chưa có hệ thống nước thải và rác thải, hay có nhưng cũng không đạt quy chuẩn quy định, đang thải ra một lượng khá lớn nước thải và rác thải vào hệ thống kênh rạch thành phố.
Nguồn thải từ sản xuất nông nghiệp
Nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng do phát triển tăng vụ trong trồng trọt, chăn nuôi trong khi chưa kiểm soát chặt chẽ về số lượng và chất lượng nước cho canh tác nông nghiệp, sử dụng nước còn lẵng phí, cơ cấu cây trồng mùa vụ chưa phù hợp, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất… việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách và thiếu kiểm soát. Do đó, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm và lãng phí nước vào mùa mưa, nhưng vào mùa khô lại thiếu nước trầm trọng.
Nguồn thải từ nuôi thủy sản
Hầu hết các hộ nuôi trồng thủy sản không có ao lắng lọc trước khi xả nước thải ra sông rạch, không có diện tích chứa bùn đất khi sên vét ao nuôi. Nước thải, bùn trong ao nuôi cá, lồng bè thải trực tiếp ra sông rạch dẫn đến ô nhiễm môi trường nước.
Thừa nhận rằng Luật Tài nguyên nước đã thể hiện những bước tiến bộ cơ bản trong việc quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên nước. Trong những năm qua pháp luật về tài nguyên nước không ngừng được hoàn thiện. Cụ thể như các Nghị định của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành đã được ban hành, sửa đổi và bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và sự hội nhập quốc tế của đất nước trong tất cả các lĩnh vực. Nhưng qua thực trạng trên, có thể nhận thấy, mặc dù hệ thống pháp luật về tài nguyên nước đã được liên tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, nhưng rõ dàng vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống như mong muốn và còn những tồn tại cần giải quyết:
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tài nguyên nước bị hạn chế do thiếu kinh phí thực hiện.
Tình trạng ô nhiễm nước vẫn chưa được kiểm soát, thậm chí ngày càng leo thang rõ rệt hơn (sông, kênh, rạch đang trở thành bể chứa nước thải chưa qua xử lý), nguyên nhân chính là do hệ thống pháp luật thiếu thống nhất và ổn định. Hơn nữa, văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước phải được quy định cụ thể để khi các văn bản này có hiệu lực thì thi hành được ngay.
Quy hoạch tài nguyên nước chưa được quy định bằng trình tự, thủ tục, nội dung cụ thể nên mỗi địa phương, mỗi đơn vị tư vấn có cách thực hiện khác nhau, không thống nhất và các địa phương lân cận khó liên kết nhau. Quy hoạch tài nguyên nước chưa gắn kết với các quy hoạch giao thông, công nghiệp, nông nghiệp v.v... nên khó phát huy hiệu quả, đồng bộ.
Thuế tài nguyên nước dù có thay đổi mới về đối tượng chịu thuế và thuế suất nhưng mức đóng góp vào ngân sách còn thấp, chưa thật sự là công cụ để đối tượng chịu thuế sử dụng hiệu quả và tiết kiệm.
Thanh tra chuyên ngành không thể kiểm tra đột xuất các hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước nên không phát huy hiệu quả quản lý.
Bộ phận quản lý tài nguyên nước chưa được tách biệt và thống nhất theo hệ thống (còn kết hợp với bộ phận khoáng sản, khí tượng thủy văn). Nguồn nhân lực còn thiếu, phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau (cấp quận huyện, xã phường).
Thiếu kinh phí để trang bị và vận hành, khai thác hệ thống quan trắc tài nguyên nước./.








