Tai nạn lao động ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp
Tuy nhiên, những kết quả đạt được đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Công tác ATVSLĐ vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. ĐKLĐ trong một số ngành sản xuất, trong nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn xấu, chậm được cải thiện. TNLĐ và BNN ở nước ta vẫn còn nghiêm trọng, thậm chí còn có chiều hướng gia tăng. Nhiều vụ TNLĐ nghiêm trọng làm chết và bị thương nhiều người vẫn đang xảy ra. Trong khi đó chúng ta lại không thống kê được đầy đủ số TNLĐ xảy ra. Trong thực tế, số TNLĐ xảy ra cao hơn số liệu mà Nhà nước thống kê được và công bố hàng năm đến hàng chục, thậm chí mấy chục lần . Điều này nếu không được phân tích rõ sẽ dẫn đến ngộ nhận, đánh giá sai mức độ nghiêm trọng của TNLĐ và từ đó không có chiến lược, giải pháp đúng để kịp thời ngăn chặn TNLĐ.
Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, song chủ yếu nhất là do nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm trong công tác ATVSLĐ của nhiều cấp, nhiều ngành, của người quản lý, nhất là của người sử dụng lao động (NSDLĐ) và cả NLĐ còn yếu, việc chấp hành các qui định của pháp luật về ATVSLĐ còn kém, thậm chí còn bị coi thường, cố ý vi phạm để xảy ra TNLĐ nghiêm trọng. Đại đa số các doanh nghiệp (DN), có đến hơn 90% tổng số DN trong cả nước không thực hiện qui định của pháp luật về thống kê, báo cáo TNLĐ. Hầu như chúng ta chưa thống kê được TNLĐ trong các DN vừa và nhỏ, trong các hộ cá thể, hợp tác xã, trong khu vực ngư nghiệp, nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Nhiều DN chưa đề ra và thực hiện các chương trình, kế hoạch, biện pháp cải thiện ĐKLĐ, phòng chống TNLĐ, BNN. Công tác quản lý Nhà nước, thanh kiểm tra, khen thưởng, xử phạt về ATVSLĐ còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao. Sự tham gia của các tổ chức xã hội, các tầng lớp nhân dân vào công tác ATVSLĐ còn bị hạn chế, chưa được phát huy đồng bộ.
Để khắc phục tình trạng nói trên, đẩy mạnh công tác ATVSLĐ, phòng chống có hiệu quả TNLĐ và BNN trong thời gian tới, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp, từ công tác tuyên truyền, huấn luyện, phổ biến pháp luật và kiến thức ATVSLĐ để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức, cá nhân, nhất là NSDLĐ và NLĐ trong công tác ATVSLĐ; chấp hành nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật; nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý công tác ATVSLĐ từ trung ương đến cơ sở, cho đến việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, thực hiện các biện pháp tổ chức, quản lý để cải thiện ĐKLĐ, phòng chống TNLĐ, BNN. Cần từng bước xã hội hoá công tác ATVSLĐ, nâng cao cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà nước, các cấp chính quyền với toàn xã hội, phát huy sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, trong đó có các Hội KHKT tham gia một cách chủ động và bình đẳng vào các hoạt động ATVSLĐ, phòng chống TNLĐ, BNN. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, chắc chắn công tác ATVSLĐ của nước ta sẽ có bước phát triển mới, đạt được hiệu quả cao.
Để góp phần thực hiện tốt các giải pháp trên, Hội KHKT ATVSLĐ Việt Nam phối hợp với Viện nghiên cứu an toàn Liberty và Công ty Bảo hiểm Liberty Insurance thuộc Tập đoàn Liberty Mutual Hoa Kỳ, được sự tham gia của nhiều bộ, ngành, viện nghiên cứu, trường đại học... tổ chức Hội thảo quốc gia “Tai nạn lao động ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” . Hội thảo sau khi nghe 14 báo cáo tham luận của trong nước và quốc tế và trao đổi, thảo luận, nhất trí với những giải pháp như đã nêu trên và đưa ra một số khuyến nghị để các cấp chính quyền, cơ quan quản lý có thẩm quyền, mọi tổ chức, cá nhân cùng xem xét, tham khảo thực hiện nhằm làm tốt hơn nữa công tác ATVSLĐ nói chung và việc phòng chống TNLĐ nói riêng ở nước ta trong thời gian tới:
1. Tuy đã đạt được những kết quả nhất định trong thời gian qua, nhưng công tác ATVSLĐ nói chung và phòng chống TNLĐ nói riêng của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập. Tình hình TNLĐ của nước ta hiện nay còn nghiêm trọng, thậm chí còn có chiều hướng tăng lên. Thế nhưng chúng ta lại không thống kê được đầy đủ số liệu TNLĐ. Con số TNLĐ xảy ra trong thực tế cao hơn số thống kê được hàng chục lần. Vì vậy, không thể vin vào số liệu thống kê còn thấp để lơi là, chủ quan, không quan tâm đầu tư và không có biện pháp thoả đáng cho việc phòng chống TNLĐ. Nếu không có biện pháp có hiệu quả, cùng với sự phát triển của sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chắc chắn tình hình TNLĐ sẽ tăng lên.
2. Để khắc phục tình trạng không thống kê được đầy đủ tình hình TNLĐ, một mặt yêu cầu các DN, mà trực tiếp là NSDLĐ cần nêu cao trách nhiệm xã hội đối với DN, thực hiện tốt qui định của pháp luật, phải gửi đều đặn báo cáo định kỳ 6 tháng và hàng năm về TNLĐ lên cơ quan có thẩm quyền, mặt khác đề nghị cần có chế tài xử phạt những DN không thực hiện nghiêm việc báo cáo TNLĐ. Đồng thời, đề nghị xem xét để sửa đổi các biểu mẫu thống kê TNLĐ mà Thông tư liên tịch số 14/2005 ngày 8/3/2005 đã qui định theo hướng sao cho gọn nhẹ hơn, đơn giản hơn, giảm bớt một số thông số, chỉ tiêu không thật cần thiết để tạo điều kiện cho các DN thuận lợi hơn trong việc thống kê, ghi chép các biểu mẫu đó.
3. Đề nghị Nhà nước ban hành một văn bản pháp luật (có thể là Nghị định của Chính phủ) để điều chỉnh, qui định các vấn đề liên quan đến ATVSLĐ nói chung và TNLĐ nói riêng cho khu vực lao động tự do, cá thể, lao động trong khu vực ngư nghiệp, nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tạo cơ sở pháp lý cho đẩy mạnh hoạt động ATVSLĐ, phòng chống TNLĐ trong các khu vực này (Bộ Luật lao động hiện hành không qui định cho khu vực này).
4. Việc thực hiện chương trình quốc gia về BHLĐ, ATLĐ, VSLĐ là nhiệm vụ của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân trong nước chứ không thể coi đây chỉ là công việc của một số Bộ, ngành, địa phương, của các cấp chính quyền không thôi. Vì vậy cần huy động sự tham gia của các cấp chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân, đông đảo các nhà khoa học, cán bộ công đoàn, NSDLĐ và NLĐ vào việc thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia.
5. Đề nghị Nhà nước giao cho một số nhà khoa học thực hiện một số đề tài nghiên cứu về TNLĐ như đề tài nghiên cứu xây dựng mô hình điều tra khảo sát, thu thập số liệu về TNLĐ theo phương pháp điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên để thu thập thông tin về TNLĐ trong từng thời kỳ, làm cơ sở kiểm chứng các số liệu thống kê hàng năm từ các cơ sở báo cáo lên; đề tài nghiên cứu, phân tích nguyên nhân TNLĐ một cách khoa học để từ đó có biện pháp phù hợp phòng chống TNLĐ cho các ngành sản xuất khác nhau v.v...
6. Đề nghị các Đoàn điều tra TNLĐ cần hết sức khách quan, nghiêm túc trong việc điều tra các vụ TNLĐ để có thể đưa ra hình thức xử phạt thích ứng, kể cả việc đưa ra truy cứu trách nhiệm hình sự những người vi phạm nghiêm trọng để xảy ra TNLĐ.
7. Đề nghị sớm ra đời ở nước ta “Quỹ bồi thường TNLĐ” . Đồng thời cần khuyến khích các tổ chức xã hội trong đó có Hội KHKT ATVSLĐ Việt Nam, Hội Y học lao động Việt Nam phối hợp với các tổ chức liên quan trong và ngoài nước, với nhiều hình thức phong phú, thành lập các quỹ nhân đạo, từ thiện để hỗ trợ, trợ giúp con em, gia đình những người bị chết vì TNLĐ và cả bản thân những người bị TNLĐ.
8. Đề nghị hình thành ở nước ta một “Giải thưởng khoa học - công nghệ về ATVSLĐ” để khen thưởng cho những công trình, sáng kiến cải thiện điều kiện làm việc, phòng chống TNLĐ, BNN có hiệu quả cao.
9. Chúng ta cần hưởng ứng tốt ngày ATVSLĐ thế giới 28/4 hàng năm, để tưởng nhớ những người đã ngã xuóng vì TNLĐ và thúc đẩy tốt hơn nữa công tác ATVSLĐ ở nước ta.
10. Chúng tôi đề nghị các cấp, các ngành, các địa phương, cơ sở cần thúc đẩy việc xây dựng Văn hoá an toàn trong sản xuất , giành cho NLĐ một điều kiện làm việc ngày càng tiện nghi, an toàn hơn, không những không có TNLĐ và BNN mà còn được tôn trọng, được hưởng thành quả và chủ động đóng góp phần của mình vào việc nâng cao văn hoá sản xuất. Chúng ta cần xây dựng ở Việt Nam một sự nghiệp ATVSLĐ có văn hoá, có tính nhân văn cao .
Các đại biểu dự hội thảo “TNLĐ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” mong mỏi rằng mọi cấp chính quyền, mọi tầng lớp nhân dân, những NSDLĐ và NLĐ quan tâm thích đáng đối với công tác ATVSLĐ, góp phần tích cực của mình phòng chống TNLĐ, vì sự nghiệp cao cả bảo đảm an toàn, bảo vệ sức khoẻ NLĐ nước ta.








