Tái cấu trúc dân số - nguồn lực đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam
Cơ cấu dân số - nguồn nhân lực hiện nay
Trong xu thế phát triển mới, lợi thế về tài nguyên thiên nhiên đang giảm dần. Trong khi đó nước ta vẫn không có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng lại đông dân số nên phải đặc biệt coi trọng nguồn tài nguyên con người. Chất lượng dân số của Việt Nam được bảo đảm thì sẽ tạo ra những cơ hội rất lớn cho sản xuất của cải vật chất, giúp tăng quỹ an sinh xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, việc tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ còn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhân lực có trình độ tay nghề và tri thức khoa học. Đây cũng là con đường tối ưu để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong 10 năm tới.
Khái niệm cơ cấu "dân số vàng"
Khái niệm cơ cấu "dân số vàng" được hiểu là khi 2 người trong độ tuổi lao động (từ 15 - 60 tuổi) phải "gánh" 1 hoặc ít hơn 1 người ăn theo, tức là số người trong độ tuổi lao động nhiều gấp đôi số người phụ thuộc (không nằm trong độ tuổi lao động, không có khả năng tạo ra tài sản và không tự nuôi được bản thân). Ở Việt Nam trong giai đoạn trước đây, cần 1 người trong độ tuổi phụ thuộc. Còn hiện nay, cứ 2 người trong độ tuổi lao động mới có 1 người trong độ tuổi phụ thuộc. Gánh nặng dân số đang ở mức thấp nhất, Việt Nam đang sở hữu một dân số sung mãn nhất trong độ tuổi lao động, có khả năng đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Như vậy, Việt Nam đang bước vào thời kỳ cơ cấu "dân số vàng". Đây là cơ hội phát triển của một quốc gia, bởi hiện tượng này chỉ xuất hiện một lần trong quá trình phát triển dân số. Nếu không thật khẩn trương và triệt để, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội này và không xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nền tảng vững chắc về kinh tế và phúc lợi xã hội cho mai sau.
Nhật Bản, Xin-ga-po và Hàn Quốc đã tăng trưởng nhanh trong thời kỳ cơ cấu "dân số vàng", với tổng tỷ suất dân số phụ thuộc ở mức dưới 50%. Từ năm 1970 đến nay, các quốc gia trên còn đạt được năng suất cao hơn, tiết kiệm nhiều hơn và mức đầu tư sinh lợi lớn hơn, tăng trưởng nhanh hơn trong thời kỳ có nhiều lợi thế về lao động và nguồn nhân lực này.
Với khoảng 53 triệu người trong độ tuổi lao động và tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động tăng cao chính là lợi thế lớn về nguồn cung lao động, là tiền đề để phát triển kinh tế. Chính sự dồi dào của lực lượng lao động đang tạo ra cơ hội "vàng" cho sự phát triển của Việt Nam, hứa hẹn sự phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội, điều mà các "con rồng" châu Á trải qua giai đoạn này đã đạt được.
Cơ cấu "dân số vàng" của Việt Nam sẽ kéo dài trong khoảng 40 năm, trong đó giai đoạn 3 năm (2015 - 2017) có số người phụ thuộc thấp nhất. Bởi vạy, ngay từ bây giờ, Việt Nam cần có các định hướng phát triển đúng đắn, tái cơ cấu và sử dụng nguồn lực hiệu quả để tận dụng cơ hội thuận lợi này. Điều quan trọng nhất là nguồn nhân lực dồi dào đó phải được đào tạo, nâng cao chất lượng, tay nghề để nắm lấy cơ hội phát triển, bởi "dân số vàng" không tự động, không tất yếu đem lại tác động tích cực, mà nó phải được chủ động giành lấy. Ngược lại, nếu không được tận dụng sẽ dẫn đến thất nghiệp, tệ nạn và mất ổn định xã hội.
Thực trạng và vấn đề nguồn nhân lực hiện nay
Sau gần 25 năm đổi mới và phát triển, công tác giáo dục, đào tạo, khoa học của Việt Nam đã góp phần quan trọng vào những thành tựu của đất nước. Trình độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao động được đào tạo, số người tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với trước đây, song nhìn chung, trình độ học vấn bình quân của cả nước mới khoảng lớp 6, tỷ lệ biết chữ mới đạt 94% trong dân số.
Tuy nhiên, nhận thức về nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đang còn có những ý kiến khác nhau. Không ít ý kiến cho rằng Việt Nam có lực lượng lao động giá rẻ rất dồi dào là một lợi thế để cạnh tranh với nhiều nền kinh tế khác trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Song cần hiểu rằng, lao động giá rẻ không còn là một lợi thế, mà là nỗi lo lớn của đất nước trong bối cảnh phát triển mới. Bởi, lao động giá rẻ đồng nghĩa với chất lượng thấp; đồng thời không đáp ứng được xu thế mới, sử dụng công nghệ trong sản xuất và quản lý ngày càng cao của doanh nghiệp. Thực tế, trong bối cảnh áp lực cạnh tranh gay gắt về nguồn nhân lực chất xám, việc làm, thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đang bị mất dần lợi thế về nguồn nhân lực giá rẻ, kém chất lượng.
Khi cơ hội dân số, đặc biệt là giai đoạn "dân số vàng" diễn ra trùng với thời kỳ kinh tế ổn định và cất cánh, đồng thời hệ thống giáo dục thực hiện tốt chức năng chuẩn bị tri thức và tay nghề cho nguồn lực lao động, thì sẽ trở thành động lực cực kỳ mạnh mẽ cho phát triển nền kinh tế.
Theo Báo cáo về tình hình thị trường lao động - việc làm Việt Nam của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng… nên nhiều ngành nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng. Có thể nói, nhu cầu nhân lực chuyên môn cao đang trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Hiện nguồn cung cấp nhân lực cao cấp chỉ đáp ứng khoảng từ 30% - 40% nhu cầu. Tình trạng trên càng trầm trọng hơn khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp. Sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia với chính sách nội địa hóa những vị trí cao cấp trong thời gian gần đây sẽ càng làm vấn đề nhân sự trở nên gay gắt.
Những bất cập trong chất lượng nguồn nhân lực hiện nay còn có thể thấy qua thực tế sinh viên ra trường rất khó khăn trong tìm kiếm việc làm, phải làm trái ngành nghề được đào tạo, nên một tỷ lệ cao phải đào tạo lại (chỉ có khoảng 50% lao động làm đúng nghề được đào tạo).
Thêm nữa, bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái Lan trong khi dân số nước ta đông hơn, số tiến sĩ của Việt Nam hằng năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi. Nhưng, cũng khoảng 2/3 số người có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý.
Ngoài ra, theo kết quả khảo sát của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam về thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp FDI tại một số địa phương cho thấy mới chỉ 74% lao động có việc làm ổn định, còn 22% lao động không có việc làm ổn định, 4% thiếu việc làm.
Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu nguồn nhân lực còn thể hiện ở sự không hợp lý trong cơ cấu đào tạo. Với lực lượng lao động trẻ, trong độ tuổi sung mãn nhất (là điều mơ ước của nhiều quốc gia) song vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam thực sự đang rất đáng lo ngại. Tình trạng lao động nông thôn thuộc diện có đất thu hồi thiếu việc làm, chất lượng thấp, cho đến nay vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Với mục tiêu đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lao động nông thôn có thể phải chuyển đổi ngành nghề, song điểm yếu dường như cũng bắt đầu chính tại đây, khi không có một chính sách nào hướng dẫn, khuyến khích, thậm chí bắt buộc người lao động phải học tập một nghề nhất định.
Thị trường lao động Việt Nam đang đối mặt với cả tình trạng thừa lao động chưa qua đào tạo và thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, kinh doanh,… Con số nguồn nhân lực chỉ với 30% lao động được đào tạo và 70% lao động giản đơn thật khó có thể tạo ra sản phẩm lớn cho xã hội.
Trong khi đó, tốc độ đô thị hóa ngày càng mạnh, tình trạng nông dân thuộc diện thu hồi đất, không tìm được việc làm phù hợp đã phát sinh ra nhiều vấn đề xã hội nhức nhối. Hằng năm khoảng 70 nghìn ha đất nông nghiệp bị thu hồi để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị làm cho đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Tuy nhiên hầu hết số nông dân đó vẫn đang trong độ tuổi lao động nên phải sống dựa chủ yếu vào số tiền đền bù của Nhà nước. Khi nguồn tiền này cạn kiệt, họ đứng trước nguy cơ tái đói nghèo… và tỷ lệ tội phạm ở khu vực có đất thu hồi, vùng ven đô có chiều hướng gia tăng.
Tóm lại, có thể rút ra đặc điểm tình trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam là: Nguồn nhân lực tuy khá dồi dào, song trình độ hiện còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực còn thiếu. nguồn nhân lực trong cả một giai đoạn dài chỉ làm việc rất thụ động theo chuẩn mực, khuôn phép, không đổi mới. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trang mâu thuẫn giữa lượng và chất, giữa đào tạo và sử dụng. Tính cạnh tranh của nguồn nhân lực thấp, những khiếm khuyết trong nguồn nhân lực càng bộc lộ rõ nên lao động Việt Nam sẽ phải đối mặt với cạnh tranh từ nguồn lao động ở các nước gần kề, như Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Băng-la-đét,…
Một số định hướng giải pháp tái cấu trúc và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế của nước ta cho đến nay vẫn chủ yếu theo bề rộng, dựa vào gia tăng quy mô tài sản cố định, thâm dụng vốn đầu tư công, khai thác tài nguyên và nhân công rẻ, trong khi tác động của các nhân tố như đổi mới công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực là chưa đáng kể trong mô hình tăng trưởng. Tái cấu trúc và phát triển nguồn nhân lực dồi dào cho đất nước sẽ góp phần quan trọng có tính quyết định để thực hiện mục tiêu trên. Điều này cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, như trong báo cáo của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trình bày ngày 12-1-2011 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI có nêu: "Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước". Sau đây là một số định hướng giải pháp:
Một là, Việt Nam đang bước vào thời kỳ cơ cấu "dân số vàng" - một thời cơ "vàng" cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nắm bắt thời cơ này như thế nào để tạo một bước đột phá lại là một thách thức. Để những công dân "vàng" đem lại sự phát triển thần kỳ cho đất nước, rất cần những chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Cần triển khai mạnh mẽ chương trình đào tạo nhân lực, trong đó tập trung vào đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như các giải pháp chính sách tạo công ăn việc làm ổn định cho lực lượng lao động trẻ.
Hai là, trong khi chờ đợi đào tạo nghề cho lao động, nhằm tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, cần nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, chế biến thực phẩm, dịch vụ… nhằm thu hút, tận dụng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Đồng thời, phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng lao động trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao, đáp ứng mục tiêu phát triển đất nước. Việt Nam cần "đi bằng hai chân" trong thu hút đầu tư giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ba là, không thể tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh toàn cầu nếu không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, kể cả đội ngũ nguồn nhân lực phục vụ quản trị và kinh doanh doanh nghiệp, bao gồm cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản trị doanh nghiệp, các chuyên gia kinh tế nguồn nhân lực phải theo hướng này với mục đích cuối cùng là nhằm nâng cao chất lượng quản trị nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp.
Bốn là, có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật sự có tài năng. Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực ở Việt Nam, như: chính sách hướng nghiệp, dạy nghề, học nghề; chính sách quản lý nhà nước về dạy nghề, học nghề, sử dụng nhân tài, v.v…
Năm là, nâng cao tính cạnh tranh của nguồn nhân lực để tiếp tục thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Chính phủ và các bên liên quan hợp tác hơn nữa với doanh nghiệp, các tổ chức cộng đồng và các tổ chức giáo dục dạy nghề để có thể xây dựng nguồn nhân lực có kỹ năng, tay nghề phù hợp nhu cầu của nền kinh tế trong 10 năm tới. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng là tiền đề cho sự phát triển bền vững nên cần có các chính sách hỗ trợ những chương trình đào tạo nhân lực chất lượng cao, để tăng hiệu quả chuyển giao công nghệ, áp dụng phát minh sáng chế trong sản xuất, đời sống.
Sáu là, mục tiêu phát triển của đất nước đã được Đảng và Nhà nước xác định là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây là thời kỳ quyết định sự phát triển và hội nhập với thế giới. Trên thực tế, có nhiều quốc gia đang phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình, nhưng rất ít quốc gia có khả năng đi tiếp lên được để trở thành một nước công nghiệp vì không có chính sách hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực. Từ bài học kinh nghiệm đó, để Việt Nam có thể vượt qua "bẫy thu nhập" trung bình, tái cấu trúc nguồn nhân lực cần được thể hiện trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và trong kế hoạch 5 năm tới với những biện pháp cụ thể nhất, quyết liệt nhất và có tính chất đột phá.








