Tác dụng của rừng ngập mặn trong ứng phó với biến đổi khí hậu
Tác dụng của rừng ngập mặn
Vai trò của RNM có tác dụng quan trọng trong phòng hộ trước gió và sóng biển. Nhiều cơn bão đổ bộ vào nước ta những năm qua, nơi nào RNM được trồng và bảo vệ tốt thì các đê biển vùng đó vững vàng trước sóng, gió lớn, dù là đê biển được đắp từ đất nện. Trong khi những tuyến đê biển được xây dựng kiên cố bằng bê tông hoặc kè đá, không có RNM che chắn hoặc bị chặt phá như ở Cát Hải (hải Phòng), Hậu Lộc (Thanh Hóa) thì bị tan vỡ. Theo GS.TSKH. Phan Nguyên Hồng, Trung tâm nghiên cứu hệ sinh thái RNM, độ cao sóng biển sẽ giảm mạnh khi đi qua dải RNM, với mức biến đổi từ 75% đến 85%, từ 1,3m xuống 0,2m-0,3m.
Nghiên cứu của các nhà khoa học ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình cho thấy, trong thời gian có triều cường, khi nước triều dâng lên cao thì độ cao của sóng lừng cũng tăng lên theo độ sâu của nước, nhưng vào đến vùng bờ nông thì năng lượng của sóng giảm do ma sát với vùng đáy. Tại đây có rừng trang trồng với chiều rộng 1,5 km đã giảm độ cao của sóng từ 1m ở ngoài khơi xuống còn 5cm khi vào tới bờ đầm cua và bờ đầm không bị xói lở. Còn nơi không có RNM, cùng một khoảng cách như thế thì độ cao của sóng cách bờ đầm 1,5 km là 1 m, khi vào đến bờ vẫn còn 0,75m và bờ đầm bị xói lở.
RNM có tác dụng giảm sóng khi có gió mùa đông bắc, ở vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ, vào mùa đông thường có một số đợt gió mùa đông bắc mạnh cấp 5,6 gây ra sóng khá lớn, xói lở chân đê, bờ các đầm tôm, cua và vùng cửa sông. Những nới có dải RNM tốt bảo vệ thì không có hiện tượng xói lở. RNM làm giảm độ cao của sóng bão, bảo vệ để biển, như ở các huyện Thái Thụy, Thái Bình, huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định. Ở huyện Thái Thụy có hai tuyến đê số 7 dài 45,1 km, đê số 8 dài 41,5 km bao quanh huyện. Hầu hết các tuyến đê đều được xây dựng bằng đất từ lâu đời, việc đắp đê chủ yếu là thủ công. Do chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện tự nhiên: Gió, mưa, bão… mà kích thước mặt đê bị thu nhỏ lại. Các cơn bão vào lúc triều cường, sóng lớn nhưng các tuyến đê ở Thái Thụy không bị xói lở, đó là nhờ các dải RNM trồng do Đan Mạch hỗ trợ trồng năm 1994. Nhờ đó mà dù sườn đê chỉ bằng đất nhưng khi các cơn bão lớn đổ bộ vào, đa phần các tuyến đê an toàn. Ở Giao Thủy, nhờ có dự án trồng RNM năm 1997-2003 của Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch nên trong các cơn bão, đê ở các xã Giao Lạc, Giao An ít bị xói lở. Các tuyến đê phụ bảo vệ các đầm hải sản ngoài đê quốc gia ở xã Giao Thiện được bảo vệ trong các cơn bão nhờ có RNM của Vườn quốc gia Xuân Thủy…
RNM còn có tác dụng làm chậm dòng chảy và phát tán rộng nước triều. Nhờ hệ thống rễ dày đặc trên mặt đất của các loài đước, vẹt, mắm và bần cản sóng cát tích lũy phù sa cùng mùn bã thực vật tại chỗ nên chúng có tác dụng làm chậm dòng chảy và thích nghi với mực nước biển dâng.
RNM hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nước ngầm, nhờ có nhiều kênh rạch cùng với hệ rễ cây chằng chịt trên mặt đất làm giảm cường độ của sóng nên hạn chế dòng chảy vào nội địa khi triều cường. Ở Tp. Hồ Chí Minh, trong thời gian gần đây, triều cường đã gây ngập nhiều khu dân cư, trong đó có một nguyên nhân là hầu hết các kênh rạch đều có những dải dừa nước và nhiều loài ngập mặn khác như bần, mắm, su, trang ở các quận Nhà Bè, Bình Chánh đã bị chặt phá và lấp đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu dân cư nên không có chỗ cho nước thoát. Ngược lại, ở các rừng phòng hộ như ở Thạnh Phú (Bến Tre) và một số nới khác, nhờ có rừng rậm, khi triều lên, sóng yếu, tiêu nước tốt cho nên nước mặn không vào sâu.
RNM còn là nơi bảo vệ các động vật khi nước triều dâng và sóng lớn. Nhiều loài động vật đáy sống trong hang hoặc trên mặt bùn, khi thời tiết bất lợi, nước triều cao, sóng lớn đã trèo lên cây để tránh sóng như cá lác, các loài còng, cáy, ốc. Khi lặng gió và triều xuống thấp chúng trở lại nơi sống cũ. Do đó tính đa dạng sinh học trong hệ sinh thái RNM tương đối ổn định…
Đợt sóng thần ngày 26/12/2004, hơn 2 triệu người ở 13 quốc gia châu Á và châu Phi bị thiệt mạng, môi trường bị tàn phá nặng nề, nhưng kết quả khảo sát của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên thế giới và Chương trình Môi trường thế giới cho thấy những làng xóm ở phía sau RNM với băng rừng rộng gần như còn nguyên vẹn vì năng lượng sóng đã được giảm từ 50% đến 90%, nên thiệt hại về người rất thấp hoặc không bị tổn thất. RNM ở Ấn Độ, khoảng từ làng xóm ra bờ biển 1 km, so với nơi không có rừng thiệt hại giảm 50%-80%; Phuket (Thái Lan) cũng vậy.
Trồng, bảo vệ và phát triển bền vững rừng ngập mặn
Với tác dụng rất lớn trong việc chống BĐKH, RNM có giá trị và ý nghĩa về đa dạng sinh học đối với việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, RNM của nước ta đứng trước nguy cơ bị khai thác quá mức, dẫn tới bị tàn phá nặng nề, diện tích RNM bị thu hẹp. Việc quai đê, lấn biển lấy đất RNM trồng lúa, đắp đầm với diện tích lớn cũng thu hẹp bãi bồi ven sông ven biển, làm giảm lượng phù sa bồi đắp cho các bãi triều, mất đi bình phong bảo vệ đê biển ở một số khu vực.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 1943, diện tích RNM Việt Nam có trên 400.000 ha, đến năm 2006 giảm chỉ còn 279.000 ha. Những hạn chế bộc lộ thời gian qua trong quản lý và sử dụng RNM là nhận thức xã hội còn thấp, ngay cả việc nghiên cứu khoa học cũng chưa tương xứng, quản lý chưa thống nhất. Vì vậy, nếu không gắn kết giữa hệ sinh thái RNM với việc phát triển bền vững, sẽ khó có thể tiếp tục giữ diện tích rừng hiện có nhằm giảm bớt thiệt hại do thiên tai gây ra.
Để bảo vệ RNM, Việt Nam cần phải rà soát lại quy hoạch phát triển thủy sản ven biển, điều chỉnh theo hướng ưu tiên bảo tồn RNM hiện có, phục hồi rừng bị suy thoái và thậm chí hoàn nguyên một số khu RNM đã sử dụng thiếu hợp lý. Trong các quy hoạch nuôi trồng thủy sản ven biển phải dành đất để trồng các dải RNM làm vành đai xanh bảo vệ bờ biển, đầm nuôi với diện tích hợp lý theo quy hoạch tùy theo địa hình. Cơ quan quản lý, chính quyền địa phương cần xác định và bảo vệ những khu vực RNM quan trọng có vị trí chiến lược trong đối phó với BĐKH. Những khu RNM có xu hướng tiến về phía bờ cần được đặc biệt chú ý bảo vệ do chúng rất dễ chịu tác động của con người. GS.TSKH. Phan Nguyên Hông cho biết, muốn quản lý tốt RNM, cần có sự phối hợp chặt chẽ những ngành có liên quan ở vùng ven biển (thủy sản, lâm nghiệp, giao thông thủy, công trình cảng, du lịch…). Có những biện pháp mạnh mẽ trong việc thu hồi các vùng đất hoang hóa đó để phục hồi RNM, tạo vành đai vững chắc bảo vệ vùng biển…/.








