Tác động của biến đổi khí hậu đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long
Dân số của ĐBSCL là 17,524 triệu người, diện tích tự nhiên là 4.060.470 ha có bờ biển từ Đông sang Tây dài trên 740 km với hải phận trên biển 360.000 km2.
ĐBSCL là một vùng đồng rộng lớn có địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiêu, khí hậu ôn hòa với chế độ ngập lũ, ngập mặn và hệ thống sông rạch chằng chịt, với các hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng tràm và các hệ sinh thái nông nghiệp rất phát triển.
Thềm lục địa của ĐBSCL có các bề trầm tích Cửu Long và bể trầm tích Nam Côn Sơn với tiềm năng dầu khí rất to lớn để ĐBSCL phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Chế độ ngập lũ với tổng lưu lượng lớn nhất của lũ vào khu vực ĐBSCL của các năm lũ lớn từ 40.000 – 42.000 m 3/s. Lưu lượng lũ trên dòng chính từ 32.000 – 34.000 m 3/s, trong đó theo sông Tiền qua Tân Châu là 25.000 – 26.000 m 3/s (77 – 78%) và theo sông Hậu qua Châu Đốc 7.000 – 8.000 m 3/s (22-23%). Mùa lũ ở ĐBSCL thường kéo dài khoảng 6 tháng, từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm chi phối khoảng 1,4 – 1,9 triệu ha đất canh tác gây khó khăn cho các hoạt động dân sinh và kinh tế trong khu vực với các chế độ ngập sâu (trên 3m), ngập vừa và ngập nông tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Vĩnh Long, Tiền Giang, Kiên Giang, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ. Chế độ ngập mặm ở ĐBSCL chịu sự chi phối của chế độ bán nhật triều không đều ở biến Đông với biên độ triều là 2,5 – 3,0m và chế độ nhật triều không đều ở biển Tây vịnh Thái Lan với biên độ triều là 0,4 – 1,2m, tập trung ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An… Chế độ ngập mặn và quá trình xâm nhập mặn đã chi phối với tổng diện tích khoảng 1,4 – 1,5 triệu ha.
Tài nguyên đất ở ĐBSCL gồm có: đất cát 43.320 ha chiếm 1,09%, đất mặn 744.550 ha chiếm 18,75%, đất phèn 1.600.000 ha chiếm 40,29%, đất phù sa 1.184.860 ha chiếm 29,84%, đất than bùn 24.030 ha chiếm 0,6% và đất sông rạch khoảng 374.484 ha chiếm 9,43%. Đặc biệt đất phèn ở ĐBSCL khá lớn tập trung ở vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau… với diện tích khoảng 1,5 triệu ha. Cơ cấu kinh tế của ĐBSCL hiện nay với tỷ trọng ngành nông – lâm – ngư, chiếm khoảng 42,68%, công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 24,41%, khu vực dịch vụ chiếm khoảng 32,92% có thể thấy nền KT – XH ở đây phụ thuộc rất cơ bản vào trạng thái và chất lượng môi trường nước, môi trường đất và các hệ sinh thái mang tính chất quyết định đến chất lượng và sản lượng các sản phẩm nông – lâm – ngư và chế biến tạo ra ở đây. Hiện nay sản lượng lúa trong khu vực khoảng 20,681 triệu tấn lúa/năm, sản lượng thịt heo hơi 2,771 triệu tấn, thịt gia cầm là 417.000 tấn, khai thác thủy hải sản 2,7 triệu tấn/năm trong đó thủy sản nuôi trồng 1,84 triệu tấn và trái cây ăn quả trên 1,5 – 1,8 triệu tấn/năm. ĐBSCL trở thành vùng “kinh tế - sinh thái” có vai trò quan trọng của cả nước trong cung cấp nguyên liệu cho sản xuất chế biến phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, giữ vững an ninh lương thực và cân bằng môi trường sinh thái trong khu vực và quốc tế.
Kịch bản nước biến dâng
Các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam được tính toán bằng phương pháp tổ hợp (MAGICC/SCENGEN 5.3) theo các kịch bản phát thải thấp (B1), trung bình (B2) và cao (A1FI) cho thấy: vào năm 2020 mực nước biển dâng thêm 11 – 12cm, giữa thế kỷ 21 (năm 2050) mực nước biển có thể dâng thêm 28 đến 33 cm và đến cuối thế kỷ 21 (năm 2100) mực nước biển dâng thêm từ 65 đến 100 cm so với thời kỳ 1980 – 19999. (Kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH), nước biển dâng cho Việt Nam , Bộ Tây Nguyên & MT 2008).
Đánh giá dự báo chế độ ngập và diện tích ngập đến năm 2100 theo báo cáo của Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với ĐBXH, Bộ Tài nguyên và Môi trường như sau:
Đối với kịch bản (năm 2100) mực nước biển dâng 65 cm (mức thấp B1), diện tích ngập dự báo là: 5.133 km2 chiếm khoảng 12,8% diện tích tự nhiên của vùng ĐBSCL. Đối với kịch bản (năm 2100) mực nước biển dâng 75 cm (mức trung bình B2), diện tích ngập dự báo là: 7.580 km2 chiếm khoảng 19% diện tích tự nhiên của vùng ĐBSCL. Đối với kịch bản (năm 2100) mực nước biển dâng 100 cm (mức cao A1FI), diện tích ngập dự báo là: 15.116 km2 chiếm khoảng 37,8% diện tích tự nhiên của vùng ĐBSCL.
Tác động của BĐKH ở ĐBSCL
Tác động đến canh tác nông nghiệp
ĐBSCL có diện tích trồng lúa rất lớn, năm 2008 là 3.858.900 ha với sản lượng lúa trong toàn vùng là 20.681.600 tấn, là vựa quan trọng nhất của cả nước, giữ vững an ninh lương thực trong khu vực và quốc tế.
Vào mùa khô vùng canh tác nông nghiệp bị chi phối bởi nước mặn của thủy triều xâm nhập vào nội đồng làm cho diện tích canh tác lúa sẽ tiếp tục bị suy giảm nghiêm trọng ở các vùng ven biển sự cố BĐXH và nước biển dâng ở khu vực ĐBSCL. Chế độ ngập lũ sông MeeKong đổ về hạ lưu với lưu lượng lớn do lượng mưa tăng lên làm cho chế độ ngập sâu ở khu vực An Giang, Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và Cần Thơ với chế độ ngập sâu gia tăng làm ảnh hưởng lớn đến canh tác nông nghiệp.
Tác động đến nuôi trồng thủy sản
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy snar ở ĐBSCL đến năm 2008 đã là 752.200 ha, với sản lượng thủy sản nuôi trồng là 2.701.927 tấn, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng là 1.838.638 tấn ( cá là 1.419.020 tấn, tôm là 307.070 tấn). Đây là lợi thế hết sức cơ bản để ĐBSCL phát triển ngành chế biến thủy sản phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
Các mô hinh nuôi thủy sản nước lợ - mặn ở ĐBSCL tập trung ở Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang… với các mô hình nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm tự nhiên, nuôi tôm bán thâm canh, nuôi tôm thâm canh, nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm luân canh Lúa – Tôm, luân canh Lúa – Cá… sẽ bị ngập sâu làm suy giảm nghiêm trọng do BĐXH và nước biển dâng tác động. Các mô hình nuôi thủy sản nước ngọt tập trung ở Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng… với các mô hình canh tác Lúa – Tôm, nuôi tôm nước ngọt, tôm càng xanh. Mô hình canh tác Lúa – Cá, nuôi thâm canh cá Tra, cá Ba Sa, cá Trê, cá lóc Bông bằng bè trên sông… sẽ bị chuyển đổi mạnh mẽ, do BĐXH làm gia tăng chế độ ngập ở ĐBSCL .
Mực nước biến dâng cao sẽ kéo theo sự thay đổi hàng loạt mô hình canh tác nước lợ,ngọt trong khu vực co quá trình xâm nhập mặn diễn ra ở quy mô lớn. Một số mô hình canh tác lúa tôm, mô hình Lúa – Cá, mô hình nuôi cá ao hồ, nuôi cá ven sông rạch bãi bồi… sẽ bị tác động do sự thay đổi chất lượng môi trường nước trong những thập niên tới ở ĐBSCL.
Tác động đến phát triển lâm nghiệp
ĐBSCL hiện nay là có 334.300 ha trong đó rừng tự nhiên là 53.800 ha và rừng trồng tái sinh là 280.500 ha. Trong hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ngập úng chua phèn đặc trưng cơ bản của vùng đất ngập nước, có 10 khu đất thuộc vùng bảo tồn đất ngập nước của quốc gia đã được thành lập có tiềm năng sinh học và các hệ sinh thái khá quan trọng ở đây. Tính đa dạng sinh học ở các hệ sinh thía rừng ngập mặn và rừng tràm trong khu vực ĐBSCL có 239 loài cây, 36 loài thú, 182 loài chim đầm lầy, 34 loài bò sát và 6 loài lưỡng cư. Tại vùng biển và ven biển có đến 260 loài cá được ghi nhận và rất nhiều loại nhuyễn thể, giáp xác… sinh sống.
BĐKH với vấn đề nước biển dâng cao sẽ tác động mạnh mẽ trước nhất đến hẹ sinh thái rừng ngập mặn ven biển ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Tiền Giang… làm thay đổi chế độ ngập sâu đối với rừng ngập mặn, trong lúc đó diễn thế rừng ngập mặn không thể tiến sâu vào lục địa do các công trình hạ tầng ven biển ngăn chặn như đê biển, khu dân cư, sản xuất canh tác nông nghiệp và thủy sản. Hệ sinh thái rừng tràm ở Cà Mau, Kiên Giang… sẽ bị tác động của quá trình xâm nhập mặn làm gia tăng độ mặn môi trường nước, tác động xấu đến quá trình phát triển của hệ sinh thái này vốn thích hợp với môi trường nước lợ ngọt, chua phèn.
Tác động đến cơ sở hạ tầng
Hậu quả của cơn bão số 5 (11/1997) đã tàn phá hầu hết các tuyến đê ven biển, nước mặn do bão đã dâng cao tràn sâu vào nội đồng, gây thiệt hại rất nghiêm trọng ở khu vực Tây Nam bộ trong những năm qua làm cho 788 người bị chết, 1.142 người bị thương, 2.541 người bị mất tích. 2.789 chiếc tàu, thuyền bị chìm và mất tích, hư hỏng 1.735 chiếc. 294.128 căn nhà, 7.597 phòng học và 93 trạm xá bị sập, tốc mái và hư hỏng. 308.837 ha lúa, 77.065 ha hoa màu và cây ăn trái, 39.675 ha mía, 42.614 ha cây lâm nghiệp bị thiệt hại. Diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hại 230.900 ha. Đê biển bị tràn, sạt lở và hư hỏng 216,152 km, cầu cống bị hư hỏng 266 chiếc các loại và đường giao thông nông thôn bị sạt lở, hư hỏng 862 km. Tổng thiệt hại do bão số 5 gây ra ước tính trên 7.200 tỷ đồng.
BĐXH làm nước biển dâng cao sẽ gia tăng quá trình xâm nhập mặn sâu vào nội địa mà tập trung là các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Kiên Giang. Thậm chí các tỉnh ven sông Tiền, sông Hậu như Vĩnh Long, Hậu giang, thành phố Cần Thơ cũng có nguy cơ bị tác động ở mức cao. Tuyến đê từ thành phố Hồ Chí Minh đến mũi Cà Mau có 243,6 km đê biển chưa đáp ứng yêu cầu thiết kế, 238 mặt đê chưa được cứng hóa, chưa được khép kín, hầu hết các cống bị hư hỏng trầm trọng. Đê biển phía Tây, từ mũi Cà Mau đến Kiên Giang có 260 km mặt đê chưa được cứng hóa, 10 km không có rừng phòng hộ, có thể bị vỡ do tác động của sóng biển, 162 đê chưa có cống. Đây là các điểm yếu chịu sự tác động của diễn biến nước biển dâng cao do BĐXH có thể gây áp lực rất lớn đến phát triển kinh tế ở khu vực ĐBSCL. Tác động của chế độ ngập lũ ở ĐBSCL đã chi phối rất lớn đối với các cơ sở hạ tầng trong khu vực, gây ngập lũ 521 xã, 12 phường và 16 thị trấn. Bên cạnh đó BĐXH làm nước biển dâng cao trong vài thập niên tới sẽ kéo theo diễn biến nước lũ dâng cao ở phía thượng nguồn sông Mê Kong có thể tác động mạnh mẽ đến các cơ sở hạ tầng như giao thông đường bộ, khu dân cư, khu đô thị, các cơ sở sản xuất công nghiệp…
Đặc biệt, mùa khô năm nay (2010), diễn biến xâm nhập mặn và hạn hán kéo dài đã diễn ra hết sức khốc liệt trên diện rộng trong khu vực ĐBSCL phèn hóa lan truyền và tác động từ các nguồn thải chưa được xử lý triệt để trong sản xuất công nghiệp, sinh hoạt đời sống, canh tác nông – lâm – ngư… gây nên các tổn thất về kinh tế và môi trường, diễn biến kho hạn làm lúa và cây hoa màu bị chết không cho thu hoạch, cá và tôm nuôi ven biển bị dịch bệnh trên diện rộng, phát sinh bệnh đối với gia súc gia cầm tiếp tục gia tăng.
Đề xuất giải pháp
- Tập trung Xây dựng kế hoạch tổng thể ứng phó BĐXH và nước biển dâng ở vùng ĐBSCL, nhằm định hướng chiến lược lâu dài bảo vệ và phát triển bền vững vùng ĐBSCL , để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và đời sóng của nhân dân trong tương lai. Các tỉnh trong khu vực xây dựng kế hoạch ứng phó với BĐXH và nước biển dâng của từng tỉnh kết hợp chặt chẽ kế hoạch chặt chẽ kế hoạch vùng và quốc gia.
- Tập trung xây dựng hệ thống phòng htur các tuyến đe biển và đê cửa sông vùng ĐBSCL đáp ứng yêu cầu ngăn ngừa và ứng phó sự cố nước biển dâng trong khu vực. Tập trung nâng chiều cao thiết kế an toàn (cao thêm 0,5 – 1,0 m), cứng hóa các tuyến đê sung yếu (vùng sạt lở bờ biến Gành Hào (Đầm Dơi, Cà Mau) và Bạc Liêu, Phong Nẫm (Kế Sách, Sóc Trăng), Gò Công Đông (Tiền Giang), Giồng Bàng (Trà Vinh)…, kiên cố các công trình dưới đê như cống, cầu, đập ngăn triều… nhằm bảo đảm hệ thống đê ven biển ở khu vực ĐBSCL có thể ứng phó hữu hiệu khả năng dâng nước lâu dài ở khu vực ĐBSCL.
- Quy hoạch tổng thể vành đai rừng ngập mặn ở các tỉnh ven biển của ĐBSCL từ Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu đến Cà Mau ở phía biển Đông và từ Cà Mau đến Kiên Giang bao bọ ở phía biển Tây vịnh Thái Lan đảm bỏa an toàn phòng hộ chắn sóng và bảo vệ cân bằng môi trường. Hệ thống rừng phòng hộ này phải đảm bảo cách ly các hoạt động kinh tế nuôi trồng thủy sản bãi triều… đảm bảo ổn định của hệ thống rừng phòng hộ. Các hệ thống đê bao bọc theo các tuyến sông Tiền, sông Hậu, các cửa sông thông ra biển phải được đầu tư kiên cố như một hệ thống phòng hộ ven sông đáp ứng yêu cầu chống ngập vào mùa lũ và khi có triều cường. Tăng cường vận hành hiệu quả các hệ thống cống, đập, đê bao… ngăn mặn ven biển từ khu vực biển Đông sang biển Tây vịnh Thái Lan đảm bảo kiểm soát mặn chặt chẽ, tăng cường hiệu quả công tác thủy lợi ở vùng ngọt hóa để cấp nước ngọt cho canh tác nông nghiệp.
- Tập trung thực hiện tốt vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với kế hoạch bảo vệ môi trường ứng phó sự cố BĐKH và nước biển dâng cao ở ĐBSCL như quy hoạch phát triển nông – lâm – ngư nghiệp. Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN). Quy hoạch phát triển đô thị và các khu dấn cư, phát triển giao thông vận tải đường bộ, đường thủy… phải gắn liền với nhiệm vụ ứng phó tác động của vấn đề nước biến dâng cao đối với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong nhiều thập niên tới.
- Tổ chức vận hành hiệu quả các hệ thống cống, đập, đê bao ngăn mặn ven biển từ khu vực biển Đông sang biển Tây vịnh Thái Lan đảm bỏa kiểm soát mặn chặt chẽ, tăng cường hiệu quả công tác thủy lợi ở vùng ngọt hóa phục vụ cho canh tác nông nghiệp. Ưu điểm đầu tư phát triển các tuyến dân cư vượt lũ đảm bảo đời sống dân sinh vào mùa lũ. Vùng ngập mặn ven biển tạo điều kiện thuận lợi cho người dân địa phương tổ chức cuộc sống hợp sinh thái ứng phó BĐXH và nước biển dâng như nhà sàn chống ngập nước, canh tác nông – lâm – ngư hợp sinh thái để người dân có các cơ hội phát triển thích ứng với nước biển dâng.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về BVMT cho các cấp chính quyền và các ngành chức năng trong việc quản lý và giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc của quá trình BĐXH và nước biển dâng. Nâng cao năng lực trong việc quan trắc chất lượng môi trường trong việc giám sát diễn biến chất lượng môi trường. Tăng cường công tác truyền thông giáo dục môi trường, một cách rộng rãi đến mọi tổ chức, các doanh nghiệp, các thành phần trong xã hội để tăng cường hiểu biết về vấn đề BĐXH nhằm nâng cao nhận thức và hành động bảo vệ môi trường trong hoàn cảnh diễn biến khí hậu tác động nhiều mặt đến KT – XH và đời sống của nhân dân.
- Vấn đề ứng phó với diễn biến BĐXH làm nước biển dâng cao là vấn đề hết sức phức tạp có tính chất toàn cầu và tác động rất lâu dài vì vậy vấn đề tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, trong đánh giá tác động, trong đề xuất giải pháp kế hoạch thực hiện là hết sức cố BĐXH tác động đến khu vực ĐBSCL trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.








