Suy nghĩ về tích tụ ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long
• Mô hình “khoai lang Ba Hạo”
Mô hình sản xuất khoai lang Ba Hạo là một trong hàng vạn trang trại, tuy mới chiếm 1% đất nông nghiệp, nhưng cách tích tụ ruộng đất của mô hình Ba Hạo đáng được nghiên cứu để phát triển trong điều kiện thích hợp, vì tích tụ mà lại có ảnh hưởng tốt tới người nông dân chứ không làm họ tổn thương. Khi những nỗ lực của nhà nước trung ương và địa phương tạo điều kiện cho mọi người cày đều có ruộng, để thực hiện công bằng xã hội trong nông thôn và khi công nghiệp do quy hoạch khu chế xuất, khu công nghiệp, khu đô thị và cả sân golf cho người giàu giải trí, nhưng chưa giải quyết được vấn đề lao động và việc làm cho nông dân không còn đất sản xuất thì mô hình này rất có ý nghĩa.
Việt Nam có trên 4 triệu hecta trồng lúa, trong đó có 3,4 triệu hecta được đầu tư thuỷ lợi hoàn chỉnh. Nhưng mỗi năm có tới 70.000 hecta đất lúa bị mất do chuyển đổi mục đích sử dụng. Việc thu hồi đất ồ ạt, thiếu tôn trọng nông dân, khiến cho 2,5 triệu dân, 950.000 lao động nông nghiệp lâm vào cảnh thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm, đời sống càng khốn khó.
Lộ trình tích tụ ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long đã diễn ra một cách tự phát từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Chính những người nông dân cũng tự tìm cách tháo gỡ, do mưu sinh, và mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi đã thấy nông dân ở vùng xa, vùng sâu, vùng có nhiều người dân tộc ở tỉnh Sóc Trăng (lúc đó là tỉnh Hậu Giang) và Trà Vinh được chính quyền địa phương thu xếp, có ruộng sản xuất. Nhưng không ít trường hợp đã bán đi, bán lại vài ba lần. Chính quyền cũng đã vài lần giúp họ chuộc lại và giao đất cho họ. Trao đổi với những người này, họ cho biết lý do: nếu để họ tự sản xuất, họ sẽ bị lỗ vốn, càng nghèo thêm. Nếu cầm hoặc bán đi, bán đứt hoặc cầm cố một vài năm, họ thu được một số tiền và có thì giờ rảnh rang đi làm thuê, lại được một số tiền hơn cả tiền bán nông sản do họ tự sản xuất trước đây. Sức khoẻ cơ bắp cũng như kỹ năng lao động giản đơn của đồng bào ở đây tuyệt vời, họ có thể làm gấp hai gấp ba và thu nhập cũng gấp hai gấp ba lần so đồng bào nơi khác. Lúc đó, tôi chưa có đủ thực tế và lý luận, cả sự dũng cảm nói khác với suy nghĩ của những nông dân sống nhờ vào cơ bắp này.
Ba Hạo “tích tụ” bằng cách thuê đất trồng lúa của bà con nông dân. Giá thuê bằng sản lượng lúa, 7 tấn/ha, người cho thuê đất không sợ rủi ro. Họ được trả tiền trước, đến cuối mỗi vụ, sẽ điều chỉnh nếu giá thị trường cao hơn |
Những nông dân khác, trong chiều hướng phát triển kinh tế - xã hội sau đổi mới (từ năm 1986), đã tiếp nhận những thành tựu về giống cây con mới, tiến bộ kỹ thuật đưa vào sản xuất. Tuy nhiên, những hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chỉ dựa vào kinh nghiệm, thậm chí thiếu kinh nghiệm không đuổi kịp những chuyển đổi, thậm chí trở thành trở lực trước yêu cầu tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất hàng hoá.
Anh Đỗ Qúy Hạo, một cựu chiến binh, trụ lại Hòn Đất (Kiên Giang). Anh mày mò chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa sang dưa hấu và đến nay là khoai lang. Diện tích canh tác đến năm 2008 trên 100hecta. Doanh nghiệp Ba Hạo ra đời, toạ lạc tại ấp Hiệp Lợi, xã Mỹ Hiệp Sơn. Nơi đây thuộc vùng sâu, vùng xa, đất phèn nặng trong vùng tứ giác Long Xuyên. Trong thập kỷ 80 thế kỷ trước, tôi và các kỹ sư đồng nghiệp (nay là TS Đặng Kim Sơn, TS Tạ Quốc Tuấn) đã đến nông trường Mỹ Lâm nghiên cứu hệ thống cây trồng thích hợp, trong đó có khoai lang. Chủ doanh nghiệp Ba Hạo đèo tôi bằng xe máy từ thị trấn Sóc Sơn đi 20km mới tới cánh đồng khoai lang Ba Hạo. Xe đi trên con đường nhỏ ngoằn ngoèo, có khi phải vượt cầu vồng cao vút, khoẻ tim như tôi mà nhiều lúc phải ngoẹo người nhắm mắt. Ba Hạo luôn động viên: “Sang năm là Nhà nước làm đường cho xe 4 bánh, lúc đó giáo sư đến với em dễ hơn nhiều”. Đến nơi, sự “mạo hiểm” đối với tôi được đền đáp. Trên cánh đồng có hơn 100 người làm khoán thu hoạch. Trên bờ đê bao là núi khoai lang, dưới lán dựng tạm, bến sông rất đông thuyền đến ăn hàng. Giống khoai lang được trồng là khoai mật, khoai nghệ, khoai tím và bí đường xanh, được tuyển chọn trong số 11 giống bản địa và nhập từ Nhật Bản. Ba Hạo trồng, so sánh từng loại giống. Giống cho năng suất cao nhất là 45 tấn/ha, thấp nhất là 17 tấn. Ước tính năm 2008 sẽ đạt sản lượng 4.000 tấn, giá bán để xuất khẩu là 6.000 đồng/kg! Ăn khoai lang luộc, nhất là khi ăn ở khách sạn Hoàng Cung – trong toạ đàm do báo SGTT tổ chức tại TP Cần Thơ. Củ khoai của ba Hạo đã xoá hẳn đi ấn tượng khổ sở khi phải ăn cơm độn khoai trước đây. Tôi chỉ ăn khoai do khách sạn hấp với kỹ thuật cao, mà không màng tới món ăn khác.
Ba Hạo “tích tụ” bằng cách thuê đất trồng lúa của bà con nông dân. Giá thuê bằng sản lượng lúa, 7 tấn/ha, người cho thuê đất không sợ rủi ro. Họ được trả tiền trước, đến cuối mỗi vụ, sẽ điều chỉnh nếu giá thị trường cao hơn. Lao động gia đình làm thuê cho Ba Hạo, khoảng 70.000 đồng/công. Có người làm khoán được một vài trăm ngàn đồng/công. Ba Hạo đã chi trả 22.000 -23.000 công lao động với số tiền hơn 1,3 tỉ đồng. Một số người làm thuê cho Ba Hạo đã được mua bảo hiểm, tuy còn là số ít. Một điểm sáng trong vùng thuần nông trồng lúa, mỗi năm có đến 4-5 tháng nông nhàn! Ba Hạo tính tới khả năng luân canh khoai, lúa, vì giá lúa cao và đất được làm giàu sau những vụ khoai (vùi toàn bộ dây lá sau khi thu hoạch xuống đất). Luân canh như vậy, theo lý thuyết sẽ giảm sâu bệnh cho cả lúa lẫn khoai. Phương pháp này được xem là khá bền vững và có xu thế phát triển. Ba Hạo đã có phòng thí nghiệm nhỏ, đang lập 1 xưởng cơ khí nhỏ, đã có website riêng (www.khoailangbahao.com.vn).
Mô hình tích tụ ruộng đất này, không phải ngẫu nhiên mà là sự phát triển lên tầm cao từ những suy nghĩ và việc làm của những người nông dân Ba Hạo - chuyên sản xuất kinh doanh khoai lang ở huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, với sản lượng 8.000 tấn/năm. Cách làm này cho thấy chính sách về nới rộng hạn điền và thời gian sử dụng ruộng đất cho các nông hộ; khái niệm về bóc lột thặng dư giá trị và coi lao động như hàng hoá mà người lao động có quyền chọn nơi làm việc đã có thêm bằng chứng sinh động.








