Suy nghĩ về nâng cao tầm vóc và năng lực các Hội, Hiệp hội ngành nghề của kinh tế biển Việt Nam
Sơ lược về các Hiệp hội ngành nghề ở các nước phát triển
Trong lịch sử loài người, hành động trao đổi vật tư, hàng hoá hay còn gọi là “thương mại” đã có hàng chục ngàn năm trước. Thời cận đại đã chứng kiến “con đường tơ lụa Á – Âu” hay dòng chảy tài nguyên, khoáng sản từ các nước thuộc địa về chính quốc trong thời kỳ chủ nghĩa thực dân cũ thịnh hành. Vào thế kỷ 16, cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ, sản phẩm công nghiệp giá rẻ đã thay thế sản phẩm thủ công, giao lưu trao đổi được mở rộng cũng chính là lúc kỷ nguyên thương mại bắt đầu và phát triển cho đến nay.
Ở các nước công nghiệp dần dần hình thành các Hội, Hiệp hội của người sản xuất thuộc các ngành nghề trong xã hội. Họ tập hợp lại để giúp đỡ nhau, bảo vệ quyền lợi và sản phẩm được làm ra tiêu thụ ở thị trường nội địa cũng như bán ra thương trường thế giới. Công nghiệp, nông nghiệp và thương mại được gắn kết ngày càng chặt chẽ, nhất là khi tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời từ một hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hiện có 150 quốc gia lãnh thổ là thành viên trong tổng số 200 thành viên của Tổ chức Liên hiệp quốc, chiếm 90% dân số và làm ra 95% GDP toàn cầu, đang giữ vị thế quan trọng nhất trong đời sống kinh tế xã hội của loài người. Song hành với sự phát triển của WTO đó là toàn cầu hoá, tự do thương mại. Làn sóng này đã tạo điều kiện cho các Hội, Hiệp hội ngành nghề của các nước phát triển nâng cao tầm vóc và vị thế lớn hơn, chẳng những chăm lo lợi ích của bản thân mà còn tác động ở mức độ nhất định đến các chính sách kinh tế - xã hội của mỗi nước. Những vụ tranh chấp thương mại quốc tế, hầu như bắt nguồn từ các Hội, Hiệp hội ngành nghề mà ra. Trên thế giới từ năm 1995 – 2005 đã có 1.804 vụ kiện bán phá giá hàng hoá. Nước đi kiện nhiều nhất là Ấn Độ và Hoa Kỳ, nước bị kiện nhiều nhất là Trung Quốc và Hàn Quốc. Việt Nam bị Hoa Kỳ kiện vụ cá tra, cá ba sa (năm 2002), Liên Minh châu Âu (EU) kiên vụ giày mũ da (năm 2005 – 2006).
Thật ra, đây chỉ là màn mở đầu trong sân chơi lớn WTO đối với các Hiệp hội ngành nghề Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới.
Vị thế các Hội, Hiệp hội ngành nghề của kinh tế biển Việt Nam
Khi nói đến Kinh tế biển, chúng ta nên hiểu đây là một lĩnh vực kinh tế tổng hợp rộng lớn đa ngành nghề có liên quan chặt chẽ hữu cơ với biển và cũng là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, như: hàng hải, dịch vụ, dầu khí, thuỷ sản, du lịch, kết cấu hạ tầng vùng ven biển, hải đảo…
Năm 2003 tổng GDP từ biển đạt 73.000 tỷ đồng VN, tương đương 4,7 tỷ USD, bằng 12% GDP của quốc gia.
Tiềm năng và nguồn lợi biển của Việt Nam là yếu tố và tác nhân cực kỳ quan trọng đối với việc phát triển đất nước.
Cùng với sự nghiệp đổi mới và tiến trình hội nhập toàn cầu, nhiều Hội, Hiệp hội ngành nghề của kinh tế biển lần lượt ra đời và đang hoạt động trên khắp đất nước, nhưng chưa thật hiệu quả và đều tay. Có Hội như: Hiệp hội cảng biển, Hiệp hội chủ tàu, Hiệp hội Đại lý và Môi giới hàng hải, Hiệp hội giao nhận kho vận, Hội Khoa học và kỹ thuật Biển Việt Nam, Hội khoa học kỹ thuật công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam…. đã đóng góp nhất định cho sự nghiệp phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, xét về tầm vóc và vị thế thì vẫn chưa tương xứng với yêu cầu hội nhập, nhất là hậu WTO.
Một vài suy nghĩ về nâng cao tầm vóc và năng lực các Hội, Hiệp hội ngành nghề của kinh tế biển Việt Nam
Trong bối cảnh cơn lốc toàn cầu hóa và tự do hoá thương mại đã gõ cửa chúng ta, cộng với sự bùng nổ các cuộc cách mạng về công nghệ thông tin, vi tính, điện tử, số hoá trong sản xuất kinh doanh buộc các ngành phải vươn lên cạnh tranh để tồn tại. Như vậy, các Hội, Hiệp hội ngành nghề không thể đứng ngoài cuộc trước sự thay đổi mang tính lịch sử này. Yêu cầu bức bách là phải tự nâng cao tầm vóc và năng lực hoạt động để tranh thủ vận hội cũng như đối phó với khó khăn, thách thức từ bên ngoài đồng thời đáp ứng đòi hỏi của phát triển bên trong. Dưới đây là một suy nghĩ mang tính gợi ý để các đối tượng quan tâm tiện tham khảo.
Chức năng, nhiệm vụ
Cần nâng tầm vóc và năng lực của Hội, Hiệp hội để có thể tham gia đầy đủ với các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành, các tổ chức nghiên cứu khoa học - công nghệ liên quan trong việc hoạch định và xây dựng chiến lược phát triển ngành nghề hợp lý, khả thi. Giúp đỡ, tư vấn cho Hội viên phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng đầu tư hiện đại hoá công nghệ, tăng năng suất lao động, bảo vệ môi trường môi sinh bền vững. Đây là khâu rất quan trọng mà từ trước ít được quan tâm, nên có nhiều dự án, đề án đầu tư của nước ngoài và trong nước không được góp ý, phản biện thoả đáng trước khi triển khai, dẫn đến hậu quả nhiều công trình bị lãng phí, sử dụng không có hiệu quả, ví dụ:
Xây các cảng cá ở Sóc Trăng, Cà Mau; Đầu tư đóng tàu đánh bắt xa bờ; Nạo vét luồng hàng hải của Định An…
Tham gia tạo nguồn nhân lực
Nên tham gia và chủ động phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan dạy nghề để chăm lo việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư, đồng thời bảo đảm lực lượng có tay nghề cho các ngành sản xuất kinh doanh trong nước.
Theo thống kê thì kinh tế Việt Nam chỉ có 27% lao động qua đào tạo, trong khi đó ở các nước châu Á Thái Bình Dương con số này là trên 50%, còn các nước phát triển thì hầu hết lao động đã qua đào tạo. Sự kiện trên càng minh chứng rõ mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng cao và chất lượng kém của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, nếu cứ tiếp tục như vậy thì không thể khắc phục được tình trạng phải xuất khẩu nguyên liệu thô và sản phẩm chưa hoàn chỉnh ra thị trường thế giới.
Chủ động giải quyết tranh chấp thương mại
Các Hội, Hiệp hội cần được trang bị đầy đủ kiến thức, nghiệp vụ thuộc ngành nghề của mình và một số luật pháp thương mại quốc tế để có thể tham gia, phối hợp cùng các cơ quan hữu trách giải quyết hoặc đấu tranh bảo vệ lợi ích của ngành, cũng như của quốc gia khi xảy ra các vụ tranh chấp thương mại với nước ngoài, coi đây là một nhiệm vụ thường xuyên trong tiến trình hội nhập để không bị biến động, lúng túng trước các tình huống bất cập. Những năm gần đây, tàu biển Việt Nam liên tục bị bắt giữ ở các cảng nước ngoài, nhưng chưa thấy phản ứng tích cực nào từ Hiệp hội các chủ tàu biển Việt Nam trước sự kiện này.
Mở rộng hợp tác quốc tế
Thông thường trước đây, các Hiệp hội ngành nghề rất bị hạn chế trong quan hệ đối ngoại. Một là, do đất nước chưa mở cửa rộng rãi, hai là do nhu cầu về quan hệ không đòi hỏi phải cấp thiết. Đến nay, khi mà làn sóng toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đã trở thành trào lưu lôi cuốn mọi quốc gia vào sân chơi lớn của thế giới, không một ai muốn đứng ngoài cuộc để bị cô lập và thiệt thòi, chính trước bối cảnh này các Hội, Hiệp hội cần phải nhanh chóng mở rộng hợp tác với các đối tác nước ngoài cùng ngành nghề để trao đổi thông tin về thị trường, kinh nghiệm hoạt động và cuối cùng là bảo vệ lợi ích cho bản thân trên thương trường rộng lớn của thế giới. Hợp tác quốc tế trở thành một lĩnh vực đặc biệt quan trọng đối với các Hội, Hiệp hội ngành nghề trong quá trình đi lên để hội nhập.
Tóm lại, đã đến lúc mà các Hội, Hiệp hội ngành nghề của kinh tế biển Việt Nam phải tự nâng cao tầm vóc và năng lực ngang với thời đại, thay cho mình chiếc áo khoác cũ đã chật chội của cung cách quản lý hành chính bao cấp bằng chiếc áo mới to rộng hơn, mang kiến thức hiện đại và nghiệp vụ cao của một tổ chức ngành nghề ở đẳng cấp quốc tế, đủ khả năng phối hợp với các cơ quan hữu quan của Nhà nước xử lý tốt, đấu tranh có hiệu quả với những vướng mắc trên thương trường thế giới, bảo vệ lợi ích của Hội, Hiệp hội và quốc gia.
Hội nhập toàn cầu nghĩa là bước vào sân chơi WTO không chỉ dành riêng cho Chính phủ các nước mà là sự nghiệp và lợi ích của mọi người, của toàn dân, trong đó không thể thiếu sự tham gia tích cực của các Hội, Hiệp hội ngành nghề của kinh tế biển Việt Nam.








