Sử thi Tây Nguyên
Trong kho tàng sử thi nước ta thì sử thi Tây Nguyên có nhiều điểm đặc biệt. Trước đó là một khối lượng đồ sộ. Theo Báo cáo sơ kết ba năm thực hiện Dự án “Điều tra sưu tầm, bảo quản, biên dịch, và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên”, Văn phòng Dự án công bố: “Đã tiếp nhận 3.321 băng ghi âm (độ dài 90 phút, tương đương với 4981 giờ hát - kể của nghệ nhân), thuộc 513 tác phẩm đăng ký”. Có nhiều cách tính đơn vị tác phẩm khác nhau. Nếu tính theo bộ thì mỗi dân tộc/ tộc người, thường có một, hai bộ, mỗi bộ gồm hàng mấy chục cho đến hàng mấy trăm tác phẩm sử thi đơn thể. Đến nay đã sưu tầm được: sử thi khan của người Êđê; sử thi otnrong của người Mnông; sử thi hmon của người Ba Na;…và sử thi của các dân tộc Gia Rai, Xê Đăng, Xơ Tiêng, Ra Giai, Chăm Hroi…
Sử thi phản ánh lịch sử, xã hội thông qua việc hát - kể/diễn xướng về cuộc đời các anh hùng. Tựu trung có thể tập hợp lại thành ba nhiệm vụ anh hùng chính: lao động, lấy vợ và đánh giặc.
Nhân vật anh hùng sử thi làm những công việc thường ngày của người dân Tây Nguyên như: chặt cây, làm rẫy, đuổi thú, giữ rẫy, bắt voi, bắt lợn, đánh cá…đó là những việc làm thần kỳ. Mặc dầu vậy, anh hùng đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Việc lấy vợ cũng không bình thường. Hoặc là đánh lại quyết liệt với kẻ thù để giành lại vợ, hoặc là cướp người đẹp về làm vợ. Điều này cũng giống như các sử thi tiêu biểu của thế giới như Iliat (Hy Lạp), Ramayana (Ấn Độ). Đó là sự phản ánh một kiểu hôn nhân thời cổ sơ.
Nhiệm vụ trung tâm và rất phổ biến của anh hùng sử thi Tây Nguyên là đánh giặc. Trong bộ sử thi otnrong – Mnông có 100 cuộc đánh nhau. Đây không phải là biệt lệ của sử thi Việt Nam. Hêghen đã tổng kết: “Người ta có thể nói rằng, tình huống thích hợp nhất với sử thi là các cuộc xung đột của trạng thái chiến tranh…Sự miêu tả sinh động nhất phù hợp nhất với sử thi là tình trạng một cuộc chiến tranh thực tế” (Mỹ học, tập 3).
Các anh hùng tiến hành chiến tranh để xoá bỏ tình trạng cát cứ đương thời, thống nhất lực lượng, tăng cường sức mạnh của cộng đồng, thúc đẩy lịch sử tiến liên.
Trong 3 nhiệm vụ trên, anh hùng đều hoàn thành một cách oanh liệt. Nếu bất đắc dĩ thế hệ ông bị tạm thời thất bại thì con, cháu nhất thiết chiến thắng. Vì lẽ đó sử thi, còn gọi là anh hùng ca, là bài ca về chủ nghĩa anh hùng của dân tộc thời cổ sơ. Nó thường xuyên cổ vũ các dân tộc vươn lên đi đến chiến thắng cao nhất, trong trường kỳ lịch sử đầy gian nan hiểm trở.
Đánh giá được giá trị to lớn của sử thi Tây Nguyên, GS Phan Đăng Nhật đã tập trung nghiên cứu sử thi Việt Nam và sử thi Tây Nguyên trong nhiều năm. Bài nghiên cứu quan trọng của ông về sử thi công bố đầu tiên năm 1974. Luận án tiến sĩ khoa học của ông bảo vệ ở nước ngoài (năm 1989) là về Sử thi Êđê.
Công trình của GS Nhật không những có giá trị về mặt lý luận và còn có ảnh hưởng tốt trong đời sống: “Cụm công trình Sử thi Tây Nguyên, xuất hiện liên tục 14 năm qua, với khối lượng lớn những sách, bài viết, bài giảng, bài nói; đã làm nền tảng khoa học, đóng góp một phần nhất định cho việc hoạch định các hoạt động thực tiễn về sử thi nhất là sử thi Tây Nguyên, như: Hội thảo khoa học toàn quốc về sử thi Tây Nguyên – 1997, đề tài cấp bộ về về sử thi Đắc Lắc -1998 và Dự án cấp Nhà nước. Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên được triển khai từ năm 2001 đến nay” (Trích hồ sơ giải thưởng Khoa học và Công nghệ).
GS. Phan Đăng Nhật là một chuyên gia về văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số và là một trong những chuyên gia hàng đầu về sử thi. Ông cũng là người có công xây dựng Viện nghiên cứu Viện văn hoá dân gian tư những ngày đầu, (1979), nhiều năm là Phó viện trưởng và Viện trưởng. Nay ông là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Bảo trợ Văn hoá Kỹ thuật truyền thống thuộc hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí Xưa và Nay, số 246, tháng 10/2005