Sự tham gia của các tổ chức KH&CN ngoài Nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm nước
Chiếm đa số trong số các tổ chức KH&CN ngoài nhà nước nói chung là các tổ chức KH&CN thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) mà một trong số những hoạt động của họ đã và đang được xã hội đánh giá cao đó là hoạt động BVMT trong đó có các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nước được phản ánh qua một số khía cạnh sau đây:
1. Tuyên truyền, vận động cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường nước: Được thành lập ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước và với lợi thế tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, các tổ chức KH&CN của LHHVN dễ dàng tiếp xúc trực tiếp với cộng đồng dân cư do đó việc tuyên truyền vận động cộng đồng tham gia các hoạt động BVMT nói chung và bảo vệ môi trường nước nói riêng trở thành một thế mạnh trong hoạt động của các tổ chức này.
2. Tổ chức các hoạt động truyền thông, giáo dục BVMT, nâng cao kiến thức, kỹ năng và kỹ thuật BVMT cho cộng đồng: Đây là một nội dung quan trọng được triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ chức các hội nghị, hội thảo, các chiến dịch và phong trào BVMT tại cộng đồng, sản xuất các sản phẩm truyền thông như tờ rơi, tờ buớm, pano, áp phích, phim ảnh, phóng sự về BVMT. Hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng đồng tập trung chủ yếu vào phổ biến các nội dung của Luật và các chính sách BVMT liên quan cũng như truyền bá các kinh nghiệm và kiến thức BVMT. Các sản phẩm truyền thông về BVMT đã cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các thông tin bổ ích mà qua đó nâng cao nhận thức của họ về vấn đề BVMT, góp phần thay đổi hành vi ứng xử với môi trường theo hướng tích cực hơn.
3. Hỗ trợ người dân xây dựng các công trình cung cấp nước sạch, xử lý ô nhiễm nước thải sinh hoạt và chăn nuôi: Chỉ tính riêng các hoạt động BVMT từ ngân sách Nhà nước, trong 5 năm gần đây các tổ chức KH&CN của Liên hiệp hội Việt Nam đã thực hiện được 55 dự án BVMT trong đó phần lớn là hỗ trợ người dân xây dựng các công trình cung cấp nước sạch, xử lý ô nhiễm nước thải chăn nuôi tại cộng đồng. Chẳng hạn như mô hình xử lý nước sinh hoạt nhiễm ASEN bằng thiết bị lọc nano ở Giao Thuỷ, Nam Định; mô hình cung cấp nước sinh hoạt bằng thiết bị lọc gốm sứ ở Nghệ An, mô hình xử lý nước thải làng nghề và nước thải chăn nuôi ở Hà Tây, xử lý nước thải chợ quê ở Bắc Ninh, mô hình bảo vệ các hồ Hà Nội dựa vào cộng đồng v.v. Sự hỗ trợ trực tiếp cho người dân với các thiết bị và kỹ thuật xử lý nước phù hợp đã phần nào giảm thiểu được mức độ ô nhiễm nước và mất vệ sinh tại cộng đồng, tạo ra năng lượng sạch ( biogas) cho các hộ gia đình chăn nuôi lớn.
4. Đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức cho người dân và cán bộ xã phường về bảo vệ môi trường nước: Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân do đó việc nâng cao kiến thức cho cộng đồng là một hoạt động quan trọng của các tổ chức KH&CN của Liên hiêp Hội Việt Nam. Trong thời gian quan các tổ chức của Liên hiệp Hội Việt Nam đã thực hiện nhiều hoạt động đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức thức cho người dân và cán bộ xã phường về bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên môi trường như nâng cao nhận thức cho người Mường về việc bảo tồn đa dạng sinh học, tập huấn cho người dân bảo vệ các hồ ở Hà Nội, tập huấn cho các hộ chăn nuôi gia súc xây dựng hầm biogas ở Hà Tây và tái chế rác thải sinh hoạt thành phân vi sinh ở Vĩnh Phúc v.v. Kết quả của các hoạt động này là hàng nghìn hộ nông dân và chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ đuợc. Nâng cao kiến thức về BVMT nói chung và bảo vệ môi trường nước nói riêng từ đó làm thay đổi hành vi ứng xử với môi trường ở cộng đồng dân cư.
5. Hoạt động điều tra,đánh giá tác động môi trường nước: Trong 5 năm qua, 24 dự án điều tra, đánh giá tác động môi trường (chiếm gần 50% tổng số dự án) đã được các tổ chức của LHHVN thực hiện. Các dự án này tập trung điều tra các tai biến, sự cố, rủi ro môi trường, ô nhiễm môi trường nước, các tác động môi trường của các hoạt động kinh tế, đầu tư. Chẳng hạn như điều tra tình trạng ô nhiễm môi trường do khai thác đá vôi ở Hà Nam, khai thác mỏ ở Quảng Ninh, khai thác titan ở Hà Tĩnh; điều tra đánh giá việc suy thoái rừng phòng hộ ven biển phía Bắc, điều tra tình trạng sụt lở trượt đất trên các quốc lộ vùng tây Bắc, điều tra ảnh hưởng địa động lực đến các công trình thuỷ điện Sơn La, sông Đà, sông Tranh. vv. Các dự án điều tra và đánh giá tác động môi trường không chỉ cung cấp các cơ sở dữ liệu về môi trường đất, nước, không khí, địa chất, địa lý, các tác động môi trường và sự cố môi trường của các hoạt động kinh tế như khai khoáng, xây dựng thuỷ điện, mà còn tư vấn lập các quy hoạch môi trường và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
6. Tư vấn, phản biện chính sách pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nước: Với chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội của LHHVN, các tổ chức KH&CN trực thuộc đã tích cực tham gia góp ý, tư vấn xây dựng Luật tài nguyên nước, Luật đa dạng sinh học, sửa đổi Luật BVMT bằng việc tổ chức hàng loạt các hội nghị, hội thảo và cung cấp các kết quả nghiên cứu tại hiện trường. Đặc biệt, Mạng các NGOs Việt Nam về ứng phó biến đổi khí hậu đã phối hợp với Cục ứng phó biến đổi khí hậu tiến hành các dự án đánh giá hiện trạng và xây dựng mô hình ứng phó biến đổi khí hậu tại cộng đồng cho các vùng thường xuyên bị lũ lụt và hạn hán; Liên minh nước sạch bao gồm môt số tổ chức của LHHVN đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học để đưa ra các khuyến cáo bổ sung các quy định kiểm soát ô nhiễm nước trong Luatạ BVMT sửa đổi và xúc tiến xây dựng Luật Kiểm soát ô nhiễm nước trong thời gian tới. Các ý kiến góp ý và tư vấn xây dựng chính sách pháp luật về BVMT của các tổ chức của LHHVN đã được các Bộ ngành đánh giá cao về cơ sở khoa học và thực tiễn cũng như tính khả thi của nó.
Tuy nhiên, các tổ chức KH&CN của LHHVN cần phải đẩy mạnh nhiều hơn nữa, đó là tuyên truyền chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ tài nguyên nước, đưa ra các biện pháp nhằm kêu gọi tất cả các thành viên trong xã hội nâng cao ý thức, cùng hành động tích cực bảo vệ nguồn tài nguyên nước bao gồm việc tuyên truyền cho người dân ý thức nạo vét sông rạch để khơi thông dòng chảy, chống lấn chiếm lòng sông, kênh rạch để xây nhà, chăn nuôi thủy hải sản; hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu không rõ nguồn gốc, hạn chế chăn thả gia súc tự do để tránh gây ô nhiễm nguồn nước v.v . Phổ biến thông tin về nguồn nước cho người dân cộng đồng và địa phương nhằm nâng cao nhận thức của họ về bảo vệ nguồn nước; Phát triển các trang web và các tài liệu truyền thông bao gồm sách, áp phích, hình ảnh và video liên quan đến bảo vệ nguồn nước để cung cấp cho người dân.
Ngoài ra, nghiên cứu các phương thức thích hợp để bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên nước khắc phục tình trạng thiếu nước cho đời sống và sản xuất bao gồm các giải pháp sử dụng tiết kiệm và hợp lý tài nguyên nước; xây dựng và phát triển mạng các NGO Việt Nam về bảo vệ tài nguyên nước bao gồm các NGOs hoạt động trong lĩnh vực môi trường. Mạng lưới này thúc đẩy các hoạt động về tăng cường và nâng cao nhận thức về tài nguyên nước, tổ chức hội nghị , hội thảo về nước. Bên cạnh đó, thúc đẩy việc quản lý nước bền vững với sự tham gia của người dân địa phương.