Sứ mệnh của khoa học xã hội - nhân văn ở Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI
1. Định hướng tư tưởng cho toàn xã hội
Đầu tiên phải kể đến công tác tuyên truyền về cuộc hồi sinh phục hưng vĩ đại của dân tộc, để có thể chuyển dịch trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học thế giới sang Trung Quốc.
Song song với tuyên truyền là vấn đề định hướng nhận thức về thế giới. Tư tưởng căn bản là tôn trọng tính đa dạng, phát triển tính đồng nhất, tăng tiến tính hài hòa, nâng cao tính sáng tạo. Tôn trọng tính đa dạng, tức là đòi hỏi mọi người phải nhìn thẳng và thừa nhận tính đa dạng, tính phức tạp, tính biến hóa của thế giới, tránh khuynh hướng đơn giản hóa, hình thức hóa trong tư duy và hành động. Phát triển tính đồng nhất, chính là không ngừng tìm kiếm và xây dựng mặt thống nhất, sự vật thống nhất, giá trị thống nhất, lợi ích thống nhất giữa các sự vật mang tính đa dạng, nâng cao tính hữu cơ và tính tự tổ chức của sự vật. Tăng tiến tính hài hòa, chính là tránh làm phương hại, làm tổn thương và làm tổn hại nhau giữa các tính đa dạng, huy động tối đa mọi nhân tố tích cực, tạo điều kiện và môi trường có lợi hơn cho sự phát triển chung của sự vật. Thúc đẩy tính sáng tạo, tức là phát huy sức mạnh bản chất của con người ở mức lớn nhất, và nhiều nhân tính hơn cho thế giới - có thể khái quát là: cùng sống, cùng vinh, cùng thắng, cùng hưởng. Thái độ đó phù hợp với xu thế “văn hóa đa nguyên” hòa hợp mà không giống nhau ở thế giới ngày nay, phù hợp với lập trường tôn trọng và bảo vệ tính đa dạng của thế giới, phù hợp với chủ đề thời đại “hòa bình và phát triển”, để sự phát triển của Trung Quốc hiện nay và lâu dài là sự phát triển bền vững, ở đó “vừa thỏa mãn nhu cầu của con người đương đại, vừa không làm tổn hại đến mục tiêu đáp ứng nhu cầu của người đời sau”.
Trong việc định hướng tư tưởng luôn chú ý đến bồi dưỡng thói quen hành động và quy phạm đạo đức cho mọi người theo quan niệm giá trị cơ bản mà nhà nước và xã hội đề ra. Đây là điều vô cùng cần thiết đối với bất kỳ quốc gia và xã hội nào. Trong truyền thống ở Trung Quốc, nói và làm theo thánh nhân và theo lễ nghĩa hành vi chính trị là nội dung vô cùng quan trọng.
Chống lại xu hướng “diễn biến hòa bình” của các thế lực bên ngoài là một nội dung quan trọng của việc định hướng tư tưởng cho toàn xã hội. Đặc biệt là, chống lại các chiêu bài dùng các vấn đề phổ biến hiện nay như: ly khai dân tộc, tự do tôn giáo tín ngưỡng, dân chủ nhân quyền… của các thế lực thù địch chống lại Trung Quốc.
2. Khoa học xã hội đã góp phần thúc đẩy cải cách giáo dục
“Xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại và hệ thống giáo dục suốt đời, xây dựng xã hội theo mô hình thúc đẩy toàn diện giáo dục tố chất, tăng cường năng lực sáng tạo và lập nghiệp cho công dân, cố gắng chuyển áp lực dân số thành ưu thế nguồn nhân lực. Thúc đẩy đổi mới giáo dục, tối ưu hóa giáo dục, cải cách mô hình đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục, hình thành thể chế giáo dục thích ứng với đòi hỏi phát triển kinh tế xã hội” là những khái quát ngắn gọn, xúc tích của chiến lược giáo dục của Trung Quốc hiện nay. Vấn đề đặt ra là, nghiên cứu và giảng dạy khoa học xã hội - nhân văn Trung Quốc đứng ở đâu trong chiến lược đó?
Chúng ta đều biết, ở Trung Quốc, giáo dục là con đường chủ yếu của gia đình và cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu thăng tiến trong xã hội. Thông qua giáo dục “ cầu công danh, thay đổi vận mệnh” là những hy vọng tha thiết đã ngấm vào máu của người dân Trung Quốc. Giáo dục là công cụ sàng lọc. Điều quan trọng là, một hệ thống giáo dục, cùng với sàng lọc có thể đảm bảo được giá trị thực của giáo dục hay không. Bồi dưỡng con người theo mục tiêu giáo dục đã định, thông qua giáo dục làm cho người học phát triển toàn diện về tri thức, kỹ năng, đạo đức, thể chất, thẩm mỹ và tình cảm. Từ góc độ này, vấn đề giáo dục của Trung Quốc không phải là thi cử và sàng lọc, mà là mâu thuẫn giữa điều hòa giá trị lý tưởng và giá trị công cụ của giáo dục.
Việc học tập không theo kiểu bắt chước máy móc, không đi theo cách thức làm mọi việc đã quen thuộc trước đây mà đi theo cách làm phù hợp với thực tế, tìm ra con đường đưa tới tri thức mới. Học tập kiểu thích ứng chính là quá trình buông bỏ những giả định cũ để giúp cho việc xác định không gian vấn đề mới. Nhưng việc buông bỏ các ý tưởng, niềm tin và lệ thường mà chúng ta đã yêu mến và quen dùng thời gian lâu thường là cực kì khó khăn. Đi theo những cái mới thường đòi hỏi dấn thân vào những lĩnh vực mình còn chưa biết và khám phá. Nghiên cứu từ khoa học giáo dục Trung Quốc cho biết: việc tổ hợp của tri thức, kĩ năng và thái độ là điều cần thiết cho sự thành công trong thế kỉ XXI.
Giáo dục ở giai đoạn đầu của CNXH phải nỗ lực kết nối việc đối thoại thúc đẩy lẫn nhau giữa phát triển cá nhân có tính đa dạng với phát triển xã hội mang tính chỉnh thể, giữa phát triển phiến diện được đặc sắc hóa với phát triển toàn diện mang tính lý tưởng, giữa phát triển có hạn ở các giai đoạn với phát triển tổng thể được tăng tốc, để tạo điều kiện thực hiện lý tưởng phát triển toàn diện của con người ở xã hội cộng sản, thực thi nền giáo dục phát triển toàn diện, chứ không nên lập tức thực hiện sự phát triển toàn diện của con người, cũng giống như không thể ngay lập tức có được xã hội cộng sản. Kinh tế tri thức là nền kinh tế mới lấy sáng tạo, người sáng tạo và quan niệm giá trị sáng tạo làm cơ sở, con người phải hoàn thành bước chuyển biến có tính lịch sử từ người lao động đến người sáng tạo. Nhìn từ góc độ đó, mục đích căn bản của học tập là để sáng tạo và chỉ nền giáo dục có thể thúc đẩy bước chuyển hóa từ học tập sang sáng tạo một cách có hiệu quả mới là nền giáo dục có chất lượng nhất; còn sứ mệnh cao cả của người thầy, là giúp cho sức mạnh chủ thể của người học vượt qua thầy, vượt qua những người đi trước.
Tất cả những điểm đó đã được khoa học giáo dục thế giới kiểm chứng, nó là xu thế phát triển của giáo dục hiện đại. Đối sánh với yêu cầu thực tế xã hội và nền giáo dục khổng lồ của Trung Quốc đặt ra, nó cũng là “ngưỡng” dù chưa đạt được nhưng là “đích” cần hướng tới, đòi hỏi khoa học xã hội - nhân văn trực tiếp giải quyết thỏa đáng về lý luận, và tham dự trên tư cách trực tiếp để tiến hành cải cách giáo dục.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học xã hội - nhân văn
Cùng với hai sứ mệnh nói trên, có thể coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ cũng chính là sứ mệnh của ngành Khoa học xã hội - nhân văn. Ở đây đội ngũ cán bộ khoa học xã hội - nhân văn bao gồm những người nghiên cứu, giảng dạy và làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến khoa học xã hội nhân văn.
Có thể thấy rằng, trên thế giới khoa học xã hội - nhân văn vẫn là một bộ phận quan trọng trong giáo dục đại học ở các nước phát triển. Vai trò của nó đối với việc đào tạo những nhà lãnh đạo và những công dân có hiểu biết toàn diện về xã hội và nhân văn đã được cả khu vực tư nhân thừa nhận. Do vậy, ở nhiều nước phương Tây, người ta đang ngày càng quan tâm tới bộ phận giáo dục này. Trong khi đó, tình hình ở các nước đang phát triển lại hoàn toàn ngược lại. Nhiều nước coi khoa học xã hội nhân văn là một thứ xa xỉ chứ không phải là sự cần thiết vì bị chính phủ né tránh vì cho rằng nó nhằm phục vụ cho tầng lớp trên và thể hiện những giá trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Người ta thường coi trọng giáo dục nghề nghiệp hơn. Cho đến rất gần đây mới xuất hiện những dấu hiệu cho thấy những quan niệm như vậy đang thay đổi. Song, việc thừa nhận những lợi ích do khoa học xã hội - nhân văn đem lại thì hoàn toàn chưa phải đã phổ biến.
Trước tình hình trên và yêu cầu nội tại của xã hội, Trung Quốc đặt ra mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội - nhân văn hùng mạnh. Tiêu chí cụ thể là: “người có hiểu biết về xã hội - nhân văn phải là người có khả năng tư duy và viết lách một cách sáng sủa, có sức thuyết phục và có tính phê phán để có thể giao tiếp, trao đổi thông tin có hiệu quả với mọi người xung quanh, đồng thời phải có kiến thức sâu rộng về những nền văn hóa và những thời đại khác, có khả năng ra quyết định dựa trên sự xem xét thế giới rộng lớn và những lực lượng lịch sử đã định hình nên thế giới ngày nay. Bên cạnh đó, người có hiểu biết về xã hội và nhân văn còn phải có khả năng đánh giá một cách có phê phán những phương thức mà chúng ta dùng để thu thập kiến thức và hiểu biết thế giới, về xã hội loài người và về chính bản thân chúng ta, đồng thời có những hiểu biết và kinh nghiệm nhất định về những vấn đề tinh thần và đạo đức…”
Khoa học xã hội - nhân văn có tác động đối với tính cố kết giữa các cộng đồng xã hội. Trong khi đem lại cho người học những cách nhìn khác nhau và khuyến khích họ gắn kết các môn học và các nền văn hóa khác nhau, khoa học xã hội - nhân văn sẽ nâng cao, trau dồi lòng khoan dung và sự hiểu biết đối với những người khác, ý thức cộng đồng và hợp tác để thực hiện những mục tiêu chung. Khi cung cấp cho người học những kiến thức sâu rộng về lịch sử, nghệ thuật và khoa học, khoa học xã hội - nhân văn sẽ nuôi dưỡng cả lòng tự hào về nền văn hóa của chính họ lẫn sự tôn trọng đối với các nền văn hóa khác.
Khoa học xã hội - nhân văn khuyến khích sự cố kết không chỉ bên trong một xã hội mà cả giữa những xã hội khác nhau. Ví dụ, việc nghiên cứu về các tôn giáo trên thế giới có thể giúp cho người học nhìn nhận những mối liên hệ giữa họ với nhau như là sự nhận thức và đánh giá những khác biệt giữa họ. Trong thế giới ngày nay, sự đồng cảm với các nền văn hóa khác có thể thúc đẩy cả các quan hệ kinh doanh cũng như sự tương tác về văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự giao thương giữa các nước cho phép nhiều nền kinh tế đi vào những lĩnh vực mới. Việc đào tạo một chuyên môn cụ thể dễ mau chóng trở nên lỗi thời và khi nghề nghiệp của các cá nhân đa dạng hơn thì người ta cũng đòi hỏi những kỹ năng linh hoạt hơn và khả năng tiếp thu nhanh chóng những kỹ năng mới. Tri thức trở thành lợi thế cạnh tranh chủ yếu đối với các cá nhân cũng như đối với các nền kinh tế và những kỹ năng tổng hợp do khoa học xã hội - nhân văn đem lại dường như được tăng thêm giá trị trong tương quan với những khả năng chuyên môn cụ thể. Sự giáo dục đầy đủ về khoa học xã hội - nhân văn có thể giúp cho người học biết nối kết các bộ môn với nhau và khai thác ý tưởng của những người khác, đồng thời vẫn hợp tác cùng nhau để giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh.








