Sự kháng thuốc của vi khuẩn – một thảm họa ngấm ngầm
Sau khi penicillin được phát minh, hàng chục triệu người đả được chửa khỏi các bệnh và vết thương nhiễm trùng. Nhưng cũng từ năm 1945, khi Alexander Fleming nhận giải thưởng Nobel, ông và một vài bác học khác đã phát hiện một số vi khuẩn bắt đầu thích nghi với thuốc. Ông đã cảnh báo vấn đề này. Vì coi penicillin là “thần dược” thời đó, người ta đã mua ào ạt và sử dụng không đúng cách, làm cho thuốc mau chóng bị lờn. Tiếp đó, các nhà bác học lại phát hiện hiện tượng lờn thuốc ở các chủng vi khuẩn khác đối với các kháng sinh phát minh tiếp theo penicillin.
Khi kháng sinh được đưa vào cơ thể, nhiều vi khuẩn gây bệnh bị chết, nhưng có một vài cá thể thích nghi, sống sót. Chính những vi khuẩn này sinh sôi, nảy nở và tạo nên thế hệ vi khuẩn mới, chống lại thuốc. Tùy thuộc vào trình độ dân trí mỗi nước, vào chính sách sử dụng thuốc của nước đó, mà tình trạng kháng sinh ở mỗi nước khác nhau. Tỉ lệ kháng kháng sinh ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu rất thấp. Trái lại, tỉ lệ này ở các nước đang phát triển lại rất cao. Riêng đối với penicillin, người ta đã phân lập được 23 chủng vi khuẩn Pneumococcus lờn thuốc.
Vi khuẩn chu du từ nước này sang nước khác không cần “visa”. Với cơ chế di truyền, chúng sinh sản ra các thế hệ tiếp theo và như vậy, làn sóng lờn thuốc tuy âm thầm nhưng cũng không kém đại dịch.
![]() |
Theo số liệu thống kê năm 2008 của 3 bệnh viện: Bạch Mai, Uống Bí và Việt Tiệp, tỉ lệ lờn penicillin của Streptococcus pneumoniae là 84%, của Escherichia coli là 56% và Staphylococcus aureus là 42%.
Tình trạng kháng kháng sinh làm trầm trọng thêm bệnh lây nhiễm, tăng tỉ lệ tử vong; làm tăng chi phí chữa bệnh và gánh nặng cho xã hội; gây khó khăn cho thầy thuốc và những nhà nghiên cứu thuốc vì hiện nay chưa có kháng sinh mới nào có thể rời khỏi dây chuyền sản xuất để bước vào thị trường tiêu dùng! Do vậy, cần thay đổi cách nhìn và xử sự với kháng sinh. Chiến lược chống lại hiện tượng kháng kháng sinh ở mỗi nước có thể khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi nước, nhưng có thể khái quát trong các hoạt động sau:
- Xây dựng hệ thống giám sát chặt chẽ: Giám sát kháng kháng sinh theo mẫu qui định và giám sát việc cấp phát, mua bán, sử dụng.
- Giảm nhu cầu không cần thiết, tránh dùng bừa bãi; giảm sự cố lây nhiễm.
- Sử dụng kháng sinh phù hợp, hợp lý; chẩn đoán và chỉ định chính xác.
- Cấm dùng kháng sinh để tăng trọng trong chăn nuôi, trong thực phẩm, trong phòng bệnh cho vật nuôi.
Tăng cường công tác quản lý, trong thông tin, giáo dục về sử dụng thuốc; xây dựng phong trào sử dụng thuốc hợp lý; xây dựng và tuân thủ phác đồ điểu trị chuẩn.
WHO đã kêu gọi các quốc gia phải coi tình trạng kháng kháng sinh nói riêng (lời kêu gọi của WHO 2011) và kháng thuốc kháng khuẩn nói chung (2008) là mối đe dọa toàn cầu. Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp kịp thời để chống lại thảm họa kháng kháng sinh.









