Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 14/06/2010 07:00 (GMT+7)

Sự giao lưu về ngôn ngữ giữa các dân tộc Nam bộ

Trong quá trình khai phá, không thể không tính đến sự có mặt của các dân tộc bản địa và những dân tộc di cư đến. Đó là các dân tộc Hoa, Khmer và Chăm.

Người Khmer đã có mặt rất sớm ở Nam bộ, là dân tộc bản địa. Họ đã chọn những rẻo đất cao trên các giồng dọc theo bờ sông Tiền, sông Hậu, nương nhờ vào thiên nhiên để trồng tỉa và sinh sống. Khi đó, người Khmer đã quần tụ nhiều trong những phum sóc trên những giồng đất ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, vùng đồi núi Tri Tôn – An Giang. Người Khmer hiền hoà, hiếu khách, biết làm ruộng thâm canh. Họ theo Phật giáo tiểu thừa, có những hình thức sinh hoạt văn hoá độc đáo thể hiện qua ca múa, lễ hội…

Sự hiện diện từ đầu của người Hoa sát cánh với người Việt trong quá trình khẩn hoang Nam bộ là điều được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận. Khác với người Khmer thường sống tập trung, người Hoa phân tán khắp nơi. Nhiều chi nhánh người Hoa di cư đã cùng người Việt trong việc khai khẩn, lập đất, đóng góp không ít công lao như nhóm người Hoa của Dương Ngạn Địch, góp phần xây dựng vùng Mỹ Tho. Đặc biệt là vai trò của gia tộc họ Mạc trong việc khai khẩn và xây dựng đất Hà Tiên.

Người Chăm tập trung nhiều ở An Giang, Châu Đốc, phần đông sống bằng nghề buôn bán nhỏ, làm tiểu thủ công nghiệp. Tổ chức xã hội của người Chăm đặt trên nền tảng Hồi giáo với nhiều phong tục tập quán riêng.

Điều cần lưu ý đầu tiên là trong suốt tiến trình khai phá và phát triển của Nam bộ, các dân tộc đã cùng chung sống hòa bình và đáng kể hơn cả là sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc đã góp phần tạo cho vùng đất Nam bộ những nét văn hóa độc đáo. Ngay khi có nhiều tôn giáo lớn cùng hiện diện, giữa các dân tộc vẫn luôn giữ được tinh thần bao dung về mặt tín ngưỡng. Trên lĩnh vực ngôn ngữ, trong quá trình giao lưu, tiếng Việt đã dần dần trở thành tiếng nói chung bên cạnh hiện tượng song ngữ hay đa ngữ vẫn được coi là bình thường, còn hiện diện rải rác ở một số vùng cộng cư Việt - Khmer - Chăm, Việt - Hoa... Trong tiếng nói của người Việt đã có sự hiện diện của các tiếng dân tộc và ngược lại, chẳng hạn như các từ lì-xì, xính xái, xí mụi, thèo lèo, tài công, tằng khạo xuất phát từ tiếng Hoa; cà ràng, xà quầng, mình ên xuất phát từ tiếng Khmer... Trong sinh hoạt vật chất cũng vậy. Chiếc phảng, chiếc nóp, cà ràng của người Khmer đã được cải tiến trở thành thân thiết với người Việt đồng bằng. Chiếc áo bà ba của người Việt cũng thành quen thuộc với nhiều dân tộc. Ngôi nhà sàn là kiểu cư trú truyền thống của người Khmer nhưng người Việt, người Chăm cũng sử dụng. Nhiều món ăn vốn gốc từ một dân tộc, nhưng sau này đã được phổ biến rộng rãi. Đặc biệt, có vài trường hợp lễ hội của riêng một dân tộc cũng được các dân tộc anh em vui chung như Tết Nguyên đán, lễ đua ghe ngo...

Đặc biệt là về ngôn ngữ, do nơi đây từng diễn ra sự cộng cư, cộng canh, cộng tác giữa người Việt, người Khmer từ thế kỷ XVII đến nay nên phương ngữ Nam bộ có nhiều từ mượn tiếng Khmer. Cũng không ở đâu có nhiều từ mượn tiếng Hán theo giọng Quảng Đông, Triều Châu như ở đây. Bởi vì hơn ở đâu hết, trên nước Việt Nam , nhiều người Hoa vào đây từ cuối thế kỷ XVII trở đi để làm ăn sinh sống. Trong giao lưu, mua bán, người Việt đã tiếp nhận vào vốn từ ngữ của mình hàng trăm từ gốc Quảng Đông, Triều Châu. Người Hoa và văn hóa Hoa, trong sự giao hòa với người Việt và văn hóa Việt, là một mảng màu khá nổi trên vùng đất Nam bộ này.

* Những từ mượn có nguồn gốc Khmer

Những từ mượn có liên quan đến xã hội, phong tục người Khmer: cái xà-rông (sa-rông), cái cà-ràng, một loại bếp (âng kran), cái cần xé (canh chê), cái cù nèo (khveo), mắm bồ hóc (brô-hok), cà-ròn, bao bằng bàng (ca-rông), cà-om, một loại nồi đất (kơ-om), cái lọp để đánh cá (lop).

Những từ mượn có liên quan đến cảnh quan thiên nhiên: Cây thốt nốt (thnôt), bưng trong bưng biền (bâng), vàm (piam), cá linh (trây linh), cá chốt (trây cân-chôh), cá hô (trây hô), con cần đước (an-đơk), cây chùm ruột (căn tuôt), cây tầm vông (ping pông), trái cà na (kna).

Những từ mượn là địa danh gốc Khmer: Địa danh gốc Khmer còn được bảo tồn ở Nam bộ khá nhiều. Sau đây là một số dẫn chứng: Ba-thắc (tên cũ vùng đất ở miền sông Hậu và hữu ngạn sông Hậu), tiếng Khmer là prêk basak. Ô Môn (Srôk Ômô, nghĩa là xứ có nhiều cây ô môi).

* Những từ mượn có nguồn gốc Quảng Đông, Triều Châu

Nhiều nhất là tên những món ăn: bò pía (bảo bỉnh là loại bánh mỏng cuốn gói nhỏ với rau, tôm, thịt); dầu cháo quẩy (du chá quỹ); hủ tiếu (cốc điều); lục tàu xá (lục đậu sa, tức là chè đậu xanh); lẩu (lô); lạp xưởng (lạp trường); ngầu bín (ngưu bính là món dương vật bò nấu rục); tả pín lù (tạp bỉnh lô); thèo lèo (trà liệu).

Những từ thuộc về kinh doanh, giao tế như: chạp phô (tiệm bán tạp hóa); chánh hẩu (chính hiệu); tẩm quất (đản cốt); tứ chiếng (bốn hướng, dân tứ chiếng là dân bốn phương tụ lại).

Nhưng thú vị nhất có lẽ là sự hòa hợp ngôn ngữ giữa các dân tộc ở Nam bộ trên bình diện ca dao. Về phương diện này, mỗi dân tộc góp vào một tiếng nói của mình, làm cho ca dao Nam bộ đa dạng hơn, phong phú hơn và lạ hơn.

Gió đưa chú tửng từng tưng

Gặp chị bán gừng na nả nị ơi

Một câu ca dao với các từ láy “tửng từng tưng, na nả” ẩn chứa chỉ chú Tửng, cô Nả theo tiếngQuảng, tiếng Tiều. “Tửng” là âm tiếng Tiều của chữ “Đường”. Người Triều Châu tự xưng là Từng Náng (Đường nhân), lấy tên theo triều đại nhà Đường, một triều đại rực rỡ của Trung Quốc. Câu đầu của câuca dao được hiểu là ngọn gió khởi lên sự vui vẻ từ lòng người chú Tiều (Từng Náng) khi gặp gỡ cô gái “Nị” là đại từ ngôi thứ hai theo âm Quảng Đông, “na” là chỉ phụ nữ tương tự như cuối câu tườngthuật của tiếng Việt dùng từ: đấy, nhé... Câu ca dao nói lên hồn Việt, hồn Hoa hòa quyện vào nhau, chú, tửng, chị, nị... chứa chan tình cảm phơi phới thông qua từ láy “tửng từng tưng”, “na nả nị” quảlà thần tình!

Nếu họ không gặp thì sao?

Trời mưa muỗi cắn máng cà

Chờ cho ến xại lên bờ khuôi huôi

Và hai câu ca dao thuần Việt:

- Chờ anh cho hết sức chờ

Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông

- Trời xanh đất đỏ kinh xanh

Đỉa bu muỗi cắn làm anh nhớ nàng

“Máng cà” đúng ra là “máng cả”. “Máng” là con muỗi. “Cả” là cắn. “Cả” trại âm “cà”, do âm luật lục bát. “Ến xại” là rau muống. “Khuôi huôi” là khai hoa - trổ bông. Câu ca nói lên sự nôn nao, khắc khoải nỗi chờ đợi. Trong cái không gian miệt đồng muỗi kêu như sáo, trong cái thời gian dằng dặc trôi trên miệt đồng rau muống nảy ngọn bò lên bờ... trổ bông tình yêu chứa chan niềm hy vọng.

Chờ đợi là một nghệ thuật kỳ diệu! Câu ca chỉ là cách bày tỏ tình cảm, giải bày nỗi niềm. Nỗi nhớ trong đêm khắc khoải cũng nói lên lòng thuỷ chung đợi chờ người tình. Cánh đồng thì mênh mông, trại ấp thì thưa thớt người của đất Ngồ Ố, Láng dài nói lên sự xa cách của đôi lứa:

Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài

A hia xùa bố a mùi ùm chai.

Hia: anh. Mùi: em. Xùa bố: thú thê (cưới vợ). Ùm chai: không hay biết. Câu ca diễn đạt lời Việt là:

Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài

Anh cưới vợ rồi em chẳng được hay!

Cho nên đã yêu thì phải chủ động, là phải hành động “tam tứ núi cũng trèo”.

- Nào khi ến thạo hoang tùa

Sùng hoang, nghệch láo xuất quà thăm em

- Trời mưa dít tạm hoang tùa

A hia phề chú xuất quà thăm em.

Ến thạo: Lãng thao (sóng cả). Hoang tùa: phong đại (gió lớn). Sùng: thuận. sùng hoang: thuận phong (tức thuận gió). Nghệch láo: nghịch trào (nói nước ngược). Xuất quà (đi ra khỏi nhà). Đang lúc gặp khó: sóng cả, gió lớn, nước ngược ra khỏi nhà biết dương cánh buồm lựa theo chiều gió để đến được nhà người yêu.

Ấy là biết yêu. Ngọn gió bẻ thuận cánh buồm là ngọn gió lòng, ngọn gió tình:

Nào khi gió cả sóng to

Thuận buồm, ngược nước rời nhà thăm em

Ở câu sau, tình cảm cũng tương tự. Dít tạm: trời u ám. Phề chú: hoa chu (chèo thuyền). Gió mưa mờ mịt chỉ còn xuồng nhỏ là biết lối nhà anh, nhà em, nối đôi con tim:

Mịt mờ gió táp mưa sa

Chèo con xuồng nhỏ tới nhà thăm em.

Tất cả đổi lấy tình yêu, hạnh phúc:

Từ ngày lấy anh tôi chẳng biết gì

chỉ biết “phán xì” là củ khoai lang.

Những con cá chốt, hạt muối, bông lúa, củ khoai.. của vùng sông nước Nam bộ ấy đều gợi mở tình người, tình yêu đôi lứa (2).

Bên cạnh hiện tượng hoà hợp ngôn ngữ trong ca dao, ở Nam bộ còn có những câu ca dao được cải biên từ một câu ca dao của người Việt bằng yếu tố Hoa, trở thành một câu ca dao có đủ hai yếu tố Hoa - Việt rất ngộ nghĩnh và độc đáo:

Ta về ta “xực” cơm ta

Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn.

“Xực”, tiếng Quảng Đông có nghĩa là ăn. Như vậy câu ca dao thuần Việt là:

Ta về ta ăn cơm ta

Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn.

Tóm lại, sắc thái ca dao Nam bộ vô cùng phong phú và đa dạng. Chính cái phong phú và đa dạng này đã làm cho ca dao Nam bộ mang nhiều vẻ của một vùng sông nước hữu tình. Và các yếu tố Hoa - Việt cùng tồn tại trong một câu ca dao lại là một mảng hết sức độc đáo của ca dao Nam bộ. Nó làm cho ca dao Nam bộ không chỉ mang dáng vẻ riêng về ca dao của một vùng đất, mà nó còn tạo cho ca dao ở đây có sự hấp dẫn, mới lạ và làm lay động lòng người.

Chú thích:

1)) Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh, văn hoá dân gian người Việt ở Nam bộ, Nxb KHXH, Hà Nội tr 241 – 242.

2) Trần Văn Bính (chủ biên),Văn hoá các dân tộc Tây Nam bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra . Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr 147, 148.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.
Hỗ trợ thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững
Dự án Hỗ trợ phục hồi rừng tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình do Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt là Chủ dự án với mục tiêu hỗ trợ việc thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Vĩnh Long: Tập huấn nâng cao nhận thức về ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh
Sáng ngày 23/05, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) phối hợp với Chi cục Môi trường và Kiểm lâm – Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh, Đảng ủy, UBND xã Thuận Thới, Hợp tác Xã Thuận Thới tổ chức Hội nghị “Tập huấn tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác, ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh”.
Liên hiệp hội Hà Tĩnh: 30 năm một chặng đường phát triển
Kể từ khi mới thành lập đến nay, hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội tỉnh Hà Tĩnh không ngừng được bổ sung, kiện toàn và phát triển. Bên cạnh việc xây dựng và phát triển tổ chức, Liên hiệp hội đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ, khắc phục thách thức, nắm bắt cơ hội để tạo động lực vươn lên.
Đoàn đại biểu VUSTA viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chiều ngày 24/5/2025, đoàn đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do TSKH. Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam làm trưởng đoàn đã tới kính viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.