Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 28/04/2011 22:14 (GMT+7)

Sử dụng rơm rạ Việt Nam để sản xuất dầu sinh học (bio –oil)

Hơn nữa, việc khai thác và sử dụng dầu mỏ và than đá còn thải ra khí CO2, SO2 và NO xgây hiệu ứng nhà kính, làm ô nhiễm môi trường và môi sinh, làm thay đổi nghiêm trọng đến khí hậu toàn cầu [2-4]. Từ đó đặt ra cho nhân loại một nhiệm vụ cấp bách là phải tìm nguồn năng lượng mới có khả năng thay thế năng lượng từ nhiên liệu gốc khoáng, có thể tái tạo và thân thiện với môi trường. Nhiều năm qua, các nhà khoa học và công nghệ trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu và đề nghị nguồn năng lượng mới có thể thay thế dầu mỏ và đáp ứng được các yêu cầu đã nêu ở trên. Đó là năng lượng tái tạo, năng lượng này bao gồm: Biomass, năng lượng hydro, địa nhiệt, sức gió và năng lượng mặt trời [2-5]. Trong đó, năng lượng được tạo ra từ biomass, được gọi là năng lượng sinh học chiếm 63% tổng số năng lượng tái tạo. Nguồn năng lượng này cung cấp 14% nhu cầu năng lượng của thế giới, còn ở các nước đang phát triển, con số đó là 35% [2].

Biomass chủ yếu được tạo ra do sự chuyển hóa năng lượng ánh sáng mặt trời vào cây trồng (thực vật) bằng con đường quang hợp. Nhiên liệu Biomass bao gồm: Gỗ, chất thải gỗ (mạt cưa, phoi bào), phân động vật, nông sản và phế thải từ nông nghiệp như rơm rạ, trấu, thân và lõi ngô [2]. Ưu điểm của nhiên liệu sinh học so với nguồn nhiên liệu dầu mỏ truyền thống là có hàm lượng lưu huỳnh và nitơ thấp, không gây hiệu ứng nhà kính do có sự cân bằng CO 2.

Gần đây, năng lượng nguồn gốc sinh học được tạo ra từ biomass đang thu hút được sự quan tâm của nhiều quốc gia trền toàn thế giới, đặc biệt là các nước có nền nông nghiệp phát triển. Trên thế giới, nhiên liệu sinh học đang nghiên cứu nhiều là ethanol sinh học (bioethanol) và diesel sinh học (biodiesel). Ethanol sinh học được sản xuất bằng cách lên men các sản phẩm nông nghiệp như mía, ngô, khoai, sắn và sau đó được pha trộn với xăng dùng cho các động cơ xăng. Diesel sinh học chủ yếu được sản xuất từ dầu thực vật hay mỡ động vật và được trộn với diesel dùng cho động cơ diesel. Tuy nhiên, nhiên liệu sinh học sản xuất từ các nguồn này vẫn còn khá đắt. Do đó, việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu rẻ hơn từ nguồn phế thải để tạo nhiên liệu sinh học là rất cần thiết. Có nhiều cách phân loại nhiên liệu sinh học (NLSH). Thông thường dựa vào nguồn gốc của các nguyên liệu dùng để sản xuất NLSH có thể chia NLSH thành ba thế hệ [4]:

- NLSH thế hệ thứ nhất từ các loại cây trồng ăn được như lương thực, thực phẩm, ví dụ: Mía, của cải, ngũ cốc, dầu mỡ động thực vật. Nhược điểm cơ bản là đã sử dụng những nguồn tài nguyên sinh khối liên quan đến lương thực dẫn đến mất an ninh lương thực trên thế giới.

- NLSH thế hệ thứ hai chủ yếu từ các phụ phẩm hoặc phế thải trong sản xuất, sinh hoạt có nguồn gốc hữu cơ, ví dụ: Phế thải nông lâm nghiệp (rơm rạ, trấu, bã mía, thân ngô, mùn cưa, gỗ vụn…), chăn nuôi (phân súc vật, bùn cống rãnh…) và sinh hoạt (dầu, mỡ thải) ưu điểm nổi bật là sử dụng nguồn sinh khối không ảnh hưởng gì đến lương thực, thực phẩm nuôi sống con người và gia súc đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu, đồng thời còn góp phần giảm thiểu ô nhiễm.

- NLSH thế hệ thứ ba từ tảo (nước ngọt và nước biển), cây jatropha curcas (cây cộc rào hay cây dầu mè), cỏ swichgrass, cây halophyte, có ưu điểm vượt trội là dựa vào nguồn sinh khối phong phú của các loại cây không thuộc cây lương thực, có thể sinh trưởng hoang dại ở cả những nơi đất cằn cỗi với hàm lượng dầu cao. Tuy nhiên đó mới chỉ là nghiên cứu thăm dò ban dầu còn nhiều vấn đề khoa học và công nghệ liên quan đến canh tác, khai thác, chế biến các tài nguyên sinh khối này cần phải giải quyết trước khi nhiên liệu sinh học thế hệ ba xuất hiện trên thị trường.

Hiện nay NLSH thế hệ thứ hai đươc ưu tiên nghiên cứu và sử dụng vì hầu như sẽ không ảnh hưởng đến giá lương thực và đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu. Biomass như rơm rạ, thân cây ngũ cốc và các phể thải nông nghiệp khác được tạo ra hàng năm trên thế giới khoảng ơn nửa tỷ tấn, trong đó châu Á chiếm tới 92% [6,7]. Rơm rạ là một trong những phế thải nông nghiệp ít giá trị sử dụng, số lượng lớn đặc biệt ở các nước xuất khẩu lúa gạo, như ở Việt Nam . Rơm rạ chiếm hơn 50% tổng trọng lượng cây lúa [8]. Thành phẩn khóa học (% khối lượng) của rơm rạ gồm chủ yếu là xenluloza (60%), lignin (14%), chất béo (1,9%) và protein (3,4%). Thành phần nguyên tố (% khối lượng): C~44%, H ~5%, N~0,92%, O ~49%. Tuy nhiên, do nhiệt trị của rơm rạ rất thấp (thấp hơn nhiều so với dầu mỏ) và không thuận tiện cho việc vận chuyển, tích trữ nên rơm rạ không được sử dụng như nhiên liệu công nghiệp. Vì vậy, việc chuyển hóa rơm rạ thành sản phẩm có giá trị hơn, dễ dàng vận chuyển, bảo quản, tích trữ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển.

Việt Nam là nước xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai trên thế giới. Từ năm 2002 đến nay trung bình nước ta sản xuất ra 34 triệu tấn thóc/năm. Năm 2008 sản lượng lúa đã đạt 37,6 triệu tấn, chiếm 5,6% sản lượng lúa gạo toàn cầu [9-11]. Do đó hàng năm nước ta sẽ thải ra khoảng 55 triệu tấn rơm rạ. Số rơm rạ này một phần làm phân bón sinh học,còn chủ yếu được đốt bỏ ngay trên cánh đồng gây lãng phí và ảnh hưởng đến môi trường. Nếu tận dụng được nguồn rơm rạ này để sản xuất nhiên liệu sinh học sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn về nhiều mặt.

Thông thường, để chuyển hóa biomass thành nhiên liệu người ta sử dụng ba phương pháp chính là thủy phân (phương pháp sinh học), khí hóa và nhiệt phân. Khí hóa là quá trình oxy hóa không hoàn toàn biomass ở nhiệt độ cao (có thể lên đến 1.300 OC) có sự điều chỉnh lượng khí oxy cho phù hợp. Sản phẩm của quá trình này chủ yếu là khí tổng hợp, nhưng thiết bị phức tạp. Quá trình thủy phân bằng enzym có ưu điểm là hiệu suất và tính chọn lọc cao, nhưng nhược điểm là khó tạo ra và nuôi sống chủng enzym thích hợp. Khi thủy phân biomass, xenlulo và hemixenlulo có thể bị thủy phân tương đối hoàn toàn nhưng lignin gần như không bị thủy phân. Nếu có thì phải đòi hỏi công nghệ phức tạp và điều kiện thủy phân khắc nghiệt. Ưu điểm của phương pháp nhiệt phân là sản phẩm thu được cả dạng khí, lỏng và rắn. Hơn nữa, cũng như khí hóa, quá trình nhiệt phân có khả năng bẻ gãy liên kết hóa học của cả xenlulo, hemixenlulo và lignin, do đó làm tăng hiệu quả sử dụng biomass. Tuy nhiên, sản phẩm lỏng được quan tâm hơn cả. Các sản phẩm này đều có nhiều ứng dụng trong thực tế: Sản phẩm khí gồm các khí không bị ngưng tụ như: CO, CO 2, H 2, CH 4và các hydrocacbon C 2, C 3. Các khí này được dùng để sấy nguyên liệu sinh khối (biomass) hoặc sử dụng trong động cơ chạy khí. Sản phẩm rắn (than) có thể sử dụng làm than hoạt tính hoặc dùng để cấp nhiệt cho việc sấy sinh khối và tăng nhiệt độ cho lò phản ứng nhiệt phân. Sản phẩm lỏng (bio-oil) là hỗn hợp của hàng trăm hợp chất hữu cơ có khối lượng phân tử thấp như axit axetic, metanol, axeton… chiếm từ 40 – 50% về khối lượng. Pha hữu cơ có chứa các hợp chất cacbonyl, axit, phenol, crezol, benzenđiol, các hydrocacbon thơm (như benzen, toluen. Inden, và các dẫn xuất của chúng) và các hợp chất thơm đa vòng (như naphtalen, fluoren, phenanthren và các dẫn xuất của chúng). Sự phân bố của các hợp chất này tùy thuộc vào thành phần của nguyên liệu và điều kiện nhiệt phân.

Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày kết quả phân tích thành phần và đánh giá khả năng tạo nhiên liệu sinh học bằng quá trình nhiệt phân từ rơm rạ của giống lúa năng suất cao được trồng phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ Việt Nam

Thực nghiệm

Rơm rạ (giống lúa Khang Dân) được rửa sạch, sấy khô ở 100’C ± 5’C và cắt nhỏ thành các mảnh có kích thước 0,5 – 1,5mm. Thành phần hóa học của các mẫu rơm rạ được phân tích theo phương pháp chuẩn của TAPPI ( Hiệp hội công nghiệp giấy và bột giấy toàn cầu):

+ Độ ẩm và độ tro của các mẫu được xác định theo TAPPI T264om-97 và TAPPI ST-15m-58, tương ứng.

+ Hàm lượng xenlulo, lignin và chất trích ly được xác định theo TAPPI T15m-55, TAPPI T222om-98 và TAPPI T6m-59, tương ứng. Hàm lượng hemixenlulo được xác định dựa vào thành phẩn các hợp chất đã xác định theo công thức:

Hàm lượng hemixenlulo = Hàm lượng mẫu khô tuyệt đối – ( hàm lượng tro, xenlulo, lignin và các chất trích ly).

+ Các chất vô cơ được xác định trên mẫu tro của rơm rạ bằng phương pháp hấp thụ nguyên tử (AAS).

Phân tích thành phần nguyên tố C,H,N,S,và O trong rơm rạ được thực hiện trên máy phân tích nguyên tố Flash EA seri 1112.

Rơm rạ được nhiệt phân trên hệ thiết bị tĩnh, làm việc gián đoạn, được lắp đặt tại phòng Hóa lý bề mặt. Sơ đồ của hệ nhiệt phân sử dụng khí mang là nitơ được thể hiện trên Hình 1. Sau mỗi thí nghiệm, sản phẩm rắn và lỏng được cân. Khối lượng sản phẩm khí được tính bằng hiệ của khối lượng mẫu ban đầu từ đi tổng khối lượng sản phẩm lỏng và rắn. Sản phẩm lỏng được chiết tách bằng dung môi diclometan để phân tách riêng pha nước và pha hữu cơ. Rơm rạ (5g) có kích thước trong khoảng 0,04 – 0,85mm được cho vào ống phản ứng (4) trước mỗi phản ứng. Trước khi nhiệt phân 15 phút, thổi khí N2 để đuổi hết không khí trong lò phản ứng. Lò phản ứng (3) được điều chỉnh nhiệt độ bởi thiết bị điều chỉnh nhiệt độ (6). Sản phẩm khí sinh ra được làm lạnh ở thiết bị làm lạnh (8) sẽ ngưng tụ lại thành sản phẩm lỏng trong các bình hứng sản phẩm (7)

Kết quả và thảo luận

Kết quả phân tích thành phần hóa học của rơm rạ được thể hiện ở Bảng 1. Theo Bảng 1, các hợp chất polime như xenlulo, hemixenlulo và lignin là thành phẩn chính, chiếm đến 73,68% và đó cũng là nguyên liệu chính cho quá trình nhiệt phân. Có thể nhận thấy hàm lượng tro chiếm 12,76% trong hợp chất chứa Si chiếm đa số (Bảng 2)

Bảng 1. Thành phần hóa học của rơm rạ

Thành phần

Độ ẩm

Xenlulo

Hemixenlulo

Lignin

Các hợp chất trích ly

Tro

Tổng

Tỷ lệ (%)

7,08

42,41

12,65

18,62

6,48

12,76

100

Bảng 2.Thành phần tro của rơm rạ

Thành phần

SiO2(%)

K (%)

Na (%)

Các chất khác (%)

Tổng

Tỷ lệ (%)

72,593

2,636

0,369

24,402

100

Thành phần nguyên tố của rơm rạ được đưa ra ở Bảng 3. Từ Bảng 3 cho thấy thành phần chủ yếu của rơm rạ là các nguyên tố C, H, O, N. Thành phần C chiếm chủ yếu trong rơm rạ, số liệu này chứng tỏ rơm rạ được hình thành chủ yếu từ các hợp chất hữu cơ. Hàm lượng O cao thứ hai, chỉ sau C, điều này dẫn đến dự đoán trong thành phần bio-oil thu được sau quá trình nhiệt phân cũng sẽ có các hợp chất chứa oxy. Đây là nhược điểm chung của các bio-oil sinh ra từ nhiệt phân biomass vì các hợp chất chứa oxy sẽ làm cho dầu không bền về mặt hóa học, gây ăn mòn máy móc, động cơ đồng thời làm giảm nhiệt trị của dầu. Hàm lượng N không đáng kể nên trong thành phẩn khí sinh ra sẽ ít hợp chất N xO y, là các khí độc hại gây ô nhiễm môi trường.

Bảng 3. Thành phần nguyên tố trong rơm rạ

Thành phần

C

H

O

N

S

Tỷ lệ (%)

673,113

58,454

254,134

14,299

0,0000

Đặc biệt, trong rơm rạ đều không tìm thấy lưu huỳnh. Đó là một ưu điểm của rơm rạ khi được sử dụng làm nguyên liệu. Do đó, thành phần khí sau phản ứng không chứa các khí SO xgây ô nhiễm môi trường hoặc làm ngộ độc xúc tác trong các phản ứng nhiệt phân có xúc tác.

Như đã biết, nhiệt phân rơm rạ thực chất là quá trình bẻ gãy mạch cacbon bằng nhiệt (cracking nhiệt) của hợp chất lignoxenlulo. Như vậy, dựa vào số liệu phân tích nhiệt của rơm rạ (Hình 2) có thể xác định được khoảng nhiệt độ cũng như tốc độ nhiệt phân tối ưu. Từ hình 1 cho thấy ở nhiệt độ nhỏ hơn 100 OC, có một đỉnh píc thu nhiệt tương ứng với sự mất nước vật lý (hơi ẩm) và một số chất có nhiệt độ sôi thấp với khối lượng bị mất 7-12%. Trong khoảng nhiệt độ 180 -570’C, xuất hiện các đỉnh píc tỏa nhiệt do rơm rạ bị phân hủy và mất khối lượng xấp xỉ 80%. Kết quả này phù hợp với phân tích thành phần hóa học của rơm rạ, tổng các chất hữu cơ có thành phần chính chiếm gần 80%.

Ở tốc độ gia nhiệt thấp (5’C/phút), trên đường DSC, trong khoảng nhiệt độ 180 -570 OC có ba píc riêng biệt được cho là giai đoạn mất khối lượng của hemixenlulo, xenlulo và lignin. Trong khi đó với tốc độ gia nhiệt cao hơn (10 OC/phút, 15 OC/phút) ta chỉ thấy một đỉnh píc tù và một vai. Như vậy khi tốc độ gia nhiệt cao rơm rạ cháy rất nhanh nên gần như các hợp chất polyme hữu cơ trong rơm rạ cháy cùng lúc. Như vậy tốc độ gia nhiệt cần thiết phải ≥ 15 OC/phút.

Kết quả phân tích nhiệt cho ta dự đoán khoảng nhiệt độ nhiệt phân rơm rạ tối ưu. Khoảng nhiệt độ mất khối lượng lớn nhất là 200 – 500 OC, như vậy, nhiệt độ nhiệt phân hoàn toàn sẽ nằm trong khoảng tối ưu là 400 – 600 OC [8,35]

Hình 2. Giản đồ phân tích nhiệt ở các tốc độ gia nhiệt khác nhau:

5 OC/phút (a), 10 OC/phút (b), 15 OC/phút (c)

Bảng 4. Phân bố sản phẩm nhiệt phân

           

Sản phẩm

Rắn

Lỏng

Khí

Pha          

hữu

Pha nước

Hiệu suất (%)

29,74

48,35

21,91

23,52

24,83

Tùy thuộc vào điều kiện nhiệt phân: Nhiệt độ, thời gian, tốc độ gia nhiệt, tốc độ dòng, sự có mặt của hởi nước sẽ thu được hiệu suất cũng như phân bố sản phẩm khác nhau. Trong bài báo này, chúng tôi tiến hành nhiệt phân rơm rạ Việt Nam trong điều kiện điển hình: Nhiệt độ 550 OC, tốc độ gia nhiệt 20 OC/phút, tốc độ dòng N 2là 10ml/giây. Phân bố sản phẩm được đưa ra trong Bảng 4.

Hiệu suất sản phẩm lỏng tổng đạt 48,35%, trong đó, hàm lượng pha hữu cơ lớn chiếm 23,52%, tương đương với kết quả công bố trên thế giới [8]. Quá trình nhiệt phân rơm rạ gồm các phản ứng phân hủy sơ cấp rơm rạ và các phản ứng phân hủy thứ cấp sản phẩm của phản ứng hủy sơ cấp. Ở nhiệt độ 550 OC, cùng với phản ứng sơ cấp, phản ứng thứ cấp xảy ra mạnh, các phân tử có khối lượng trung bình bị bẻ gãy thành phân tử nhỏ hơn, tạo sản phẩm khí không ngưng tụ. Kết quả là tạo thành ba dạng sản phẩm rắn, lỏng và khí. Có nhiều thông số ảnh hưởng đến quá trình nhiệt phân. Ảnh hưởng của các thông số này đến phân bố cũng như chất lượng sản phẩm sẽ được công bố trong các bài báo cáo tiếp theo.

Kết luận

Việt Nam là một trong những nước Đông Nam Á được trời phú cho nguồn năng lượng tái tạo đa dạng. Trong đó biomass là một nguồn năng lượng tái tạo tiềm năng của tương lai. Từ các số liệu phân tích nguyên tố, thành phần hóa học cho thấy rơm rạ Việt Nam là một dạng biomass đầy hứa hẹn để sản xuất nhiên liệu sinh học.

Nghiên cứu quá trình nhiệt phân rơm rạ trong điều kiện không xúc tác ở nhiệt độ 550 OC, tốc độ gia nhiệt 20 OC/phút, tốc độ dòng nitơ 10ml/s cho thấy hiệu suất tạo sản phẩm lỏng đạt 48,35%, trong đó 23,52% là pha hữu cơ, tương đương kết quả đã công bố trong tài liệu tham khảo.

Đây là một hướng nghiên cứu mới mẻ, chưa được tìm hiểu nhiều ở Việt Nam và cũng lf ván đề thời sự trên thế giới. Trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ phản ứng nhiệt phân nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. TÌm hiểu mối quan hệ giữa tính chất và cấu trúc của các chất xúc tác đến hiệu suất và phân bố sản phẩm nhiệt phân, từ đó tìm ra chất xúc tác tối ưu. Xây dựng quy trình công nghệ đế có thể áp dụng trong thực tế sản xuất.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

WFEO: Kênh kết nối cộng đồng kỹ sư quốc tế và cơ hội tham gia của cộng đồng kỹ sư Việt Nam
Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào các giải pháp kỹ thuật để giải quyết những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, đô thị hóa và chuyển đổi số, vai trò của các kỹ sư trở nên then chốt hơn bao giờ hết. Đứng sau sức mạnh tập thể của hơn 30 triệu kỹ sư trên toàn cầu là Liên đoàn các Tổ chức kỹ sư Thế giới (World Federation of Engineering Organizations - WFEO).
Trung tâm SUDECOM nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp cho cộng đồng
Sáng ngày 29/12, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Bền vững Cộng đồng các Dân tộc Miền núi (Trung tâm SUDECOM) đã tổ chức hội nghị tổng kết dự án “Hỗ trợ mô hình sinh kế và nâng cao năng lực tiếp cận chuỗi giá trị nông nghiệp cho cộng đồng nhằm góp phần tăng thu nhập và bình đẳng giới tại 3 xã Lương Thịnh, Thác Bà, Yên Bình, tỉnh Lào Cai”.
VUSTA nhận Bằng khen của Bộ Ngoại giao vì những đóng góp tiêu biểu trong công tác đối ngoại nhân dân 2025
Phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác đối ngoại nhân dân 2025, Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh khẳng định đội ngũ trí thức KH&CN đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của công tác đối ngoại nhân dân 2025. VUSTA cam kết tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong đối ngoại nhân dân, góp phần thúc đẩy hợp tác quốc tế về KH&CN, ĐMST&CĐS trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.