Sử dụng công nghệ sản xuất trong nước xử lý chất thải rắn
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã khẳng định quan điểm: phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế cùng với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Chủ trương này phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương.
Trong tiến trình CNH, HÐH đất nước, nhiệm vụ bảo vệ môi trường luôn được Ðảng và Nhà nước coi trọng. Nhận thức về bảo vệ môi trường trong các cấp, ngành và nhân dân đã được nâng lên đáng kể. Mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa, sự gia tăng dân số, việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ... làm môi trường nước ta bị xuống cấp nhanh. Các thảm họa thiên tai và diễn biến xấu về khí hậu toàn cầu gây áp lực lớn đặt công tác bảo vệ môi trường trước những thách thức gay gắt.
Hiện nay, theo thống kê, tổng lượng chất thải rắn phát sinh trong các đô thị cả nước là 6,4 triệu tấn/năm. Trong đó, chất thải rắn sinh hoạt chiếm khoảng 80%. Tuy vấn đề xử lý chất thải đô thị rất được quan tâm, nhưng cho đến nay, mới chỉ có hai công nghệ được sử dụng: chủ yếu là chôn lấp và chế biến chất thải hữu cơ thành phân com-po. Hiện có tới 85% đô thị (từ thị xã trở lên) sử dụng phương pháp chôn lấp chất thải không hợp vệ sinh. Các bãi chôn lấp hợp vệ sinh rất ít và tập trung ở các thành phố lớn. Với các bãi chôn lấp hợp vệ sinh, thì công nghệ xử lý nước tại các bãi chôn lấp vẫn chưa hoàn thiện. Hiện chỉ có khoảng 9% các đô thị (từ thị xã trở lên) có nhà máy chế biến phân hữu cơ từ chất thải sinh hoạt rắn. Do nguồn vốn đầu tư tương đối lớn, nên chủ yếu các nhà máy xử lý rác thải được xây dựng từ nguồn vốn ODA. Việc xây dựng bằng nguồn vốn ODA cũng có không ít những khó khăn: vốn đầu tư cao và thường rất chậm; công nghệ không hoàn toàn phù hợp điều kiện Việt Nam , khó khăn trong sửa chữa, thay thế thiết bị...
Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, thời gian qua, một số doanh nghiệp trong nước (chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân) đã nghiên cứu, áp dụng một vài công nghệ mới và đã thu được những kết quả nhất định. Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, công nghệ Seraphin đã tái chế được phần lớn chất thải rắn, giảm lượng rác chôn lấp, không xuất hiện nước rỉ rác trong quá trình xử lý... Công nghệ này đang được triển khai ứng dụng tại Nhà máy xử lý rác Ðông Vinh, TP Vinh (Nghệ An) với công suất 200 tấn/ngày. Nhược điểm của công nghệ này là còn thiếu tính đồng bộ, tính công nghiệp. Công nghệ An sinh - ASC hoạt động theo tiêu chí 3T: Tránh chôn lấp; Tái sinh mùn hữu cơ; Tái chế phế thải dẻo và trơ. Công nghệ này đang được áp dụng vào Nhà máy rác Thủy Phương (thành phố Huế).
Cũng theo đánh giá của Bộ Xây dựng, ưu điểm chung của các công nghệ trong nước là: diện tích sử dụng ít; đầu tư thấp; thời gian thi công nhanh; tái chế được phần lớn chất thải rắn; phù hợp điều kiện Việt Nam , dễ sửa chữa, thay thế thiết bị... Các công nghệ này chủ yếu là do tư nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng.
Hiện nay một số công ty tư nhân như: Công ty cổ phần tư vấn đầu tư xây dựng và môi trường (ICEC) đang tiến hành đầu tư xây dựng nhà máy xử lý rác thải Hà Nam, Công ty cổ phần công nghệ môi trường xanh xây dựng nhà máy xử lý rác thải Sơn Tây, Công ty cổ phần đầu tư phát triển Tâm Sinh Nghĩa đang đầu tư nâng cấp nhà máy xử lý rác thải Thủy Phương (Huế), v.v...
Việc các nhà đầu tư tư nhân tham gia ngày càng nhiều vào dịch vụ bảo vệ môi trường là một xu hướng tích cực, phù hợp yêu cầu xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, họ còn gặp nhiều khó khăn trong triển khai, ứng dụng vì nhiều lý do: năng lực tài chính của các doanh nghiệp tư nhân có hạn, Nhà nước lại chưa có những chính sách cụ thể nhằm tạo mọi điều kiện, nhất là về nguồn vốn, vì thế các doanh nghiệp phải vừa triển khai ứng dụng, vừa hoàn thiện, chưa đủ cơ sở để thuyết phục các địa phương tự bỏ vốn hoặc vay vốn xây dựng nhà máy.
Trước tình hình đó, thực hiện tinh thần Chỉ thị số 23/2005/CT-TTg ngày 21-6-2005 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã phối hợp một số địa phương nghiên cứu và tổ chức xây dựng Chương trình: "Ðầu tư thí điểm áp dụng các công nghệ xử lý rác hạn chế chôn lấp, ưu tiên áp dụng các công nghệ được nghiên cứu trong nước, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu và phát triển việc tái chế, sử dụng lại rác thải".
Nội dung của chương trình bao gồm: đầu tư xây dựng thí điểm một vài nhà máy xử lý rác thải tại các tỉnh được lựa chọn nhằm áp dụng các công nghệ đã được nghiên cứu trong nước; tổng kết, đánh giá hiệu quả các công nghệ đó để hoàn thiện, phổ biến nhân rộng cho các địa phương. Tuy tổng mức đầu tư của Chương trình không lớn lắm, nhưng có ý nghĩa to lớn trong việc huy động các tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường. Ðể chủ trương xã hội hóa công tác xử lý chất thải rắn trong cả nước thật sự phát huy hiệu quả, phải triển khai nhanh một cách đồng bộ những cơ chế, chính sách cụ thể, nhất là những biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn về vay vốn, về trả phí xử lý rác, cấp đất, các ưu đãi đầu tư v.v... cho các doanh nghiệp. Làm sao để các cơ chế, chính sách của Nhà nước phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khác nhau.
- Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững. - Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người. Ðầu tư cho môi trường chính là đầu tư cho phát triển bền vững. (Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước). - Công tác quản lý chất thải rắn tại các khu đô thị và khu công nghiệp nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn... Nhu cầu chi phí cho công tác quản lý chất thải rắn sẽ ngày càng lớn trong khi đầu tư cho công tác quản lý chất thải rắn còn thấp. (Chỉ thị số 23/2005/CT-TTg về đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp). |
Nguồn: nhandan.com.vn 13/7/2006








