Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 04/11/2005 15:01 (GMT+7)

Sĩ phu Trung Quốc và Việt Nam trong chuyển biến của thời đại

Vị trí xã hội của trí thức truyền thống

Trung Quốc và Việt Nam thời cận đại đều là hai xã hội với các hệ thống quan lại, trong đó dòng dõi quý tộc thế tập không đóng vai trò lớn, và những phần tử ưu tú được tuyển lựa thông qua các kỳ thi. Các nhà quan sát Phương Tây lần đầu tiên gặp các hệ thống quan lại này thường ngạc nhiên, thậm chí có người còn lẫn lộn cho rằng xã hội Việt Nam thời tiền hiện đại là một “nền dân chủ khoa bảng”, dù cho đó là một nền dân chủ có người đứng đầu là cha truyền con nối. Thực ra, cả Việt Nam và Trung Quốc đều là các chế độ quân chủ tuyệt đối. Nhưng, ít nhất trên lý thuyết, giới tinh hoa phục vụ các chế độ quân chủ này cần chứng tỏ họ xứng đáng với quyền uy thông qua thành công học vấn. Họ không có quyền lực xã hội thế tập của giới quý tộc Thái hay quý tộc Mã Lai, chứ chưa nói đến các dòng dõi quý tộc Đông Âu kiểm soát hàng ngàn nông nô ở Ba Lan, Hungary và Nga hai thế kỷ trước.

Tầng lớp sĩ phu Trung Quốc và Việt Nam vì thế phải bảo vệ địa vị của mình bằng những biện pháp khác với việc sở hữu nông nô và điền trang như quí tộc Đông Âu. Họ phải bảo vệ vị trí bằng sựkhẳng định mình chính là đại diện cho giá trị Khổng giáo. Nhưng khi Trung Quốc và Việt Nam bành trướng, họ lại cũng phải khẳng định thêm rằng mình nắm giữ sự hiểu biết toàn diện, như lời xác quyếtcủa Lê Quý Đôn năm 1776 rằng ông có thể viết một quyển sách - Phủ biên tạp lục– giúp giải thích toàn bộ tình hình miền Trung và Nam Việt Nam cho các nhà caitrị không bao giờ đi ra khỏi Thăng Long. Ở cả Trung Quốc và Việt Nam thế kỷ 19, quan chức địa phương quan trọng nhất nắm quyền phán quyết, theo nghĩa đen là một vị quan “biết cái huyện của mình”(Zhixian” trong tiếng Hoa, và “tri huyện” trong tiếng Việt). Sự nhấn mạnh ở đây là kiến thức của vị quan về hành chính địa phương. […]

Mạnh Tử cho rằng người quân tử phải theo thiên lý mà tự cường tự động, cầu lấy được cái vui về đạo và rằng “trung giả dưỡng bất trung, tài giả dưỡng bất tài”,nghĩa là người trung chính dạy người không trung chính, người có tài năng dạy người không có tài năng. […]. Khi chứng minh làm thế nào một người quân tử có thể hoạch định cải cách cho xã hội, danh sĩ Trung Quốc thế kỷ 17 Cố Viêm Vũ (1613-1682) đã viết rằng cái nghèo là vất đề lớn nhất của đế chế Trung Hoa; nhưng ông có chiến lược xoá đói giảm nghèo có thể tạo ra sự phồn thịnh tương đối, hay một “sự yên bình nhỏ” ( tiểu khang) cho Trung Hoa trong 5 năm và “đại phúc” trong 10 năm. Chính cái truyền thống định vị tương lai này của những bậc hiền giả thời cổ như Cố Viêm Vũ, đã được Đặng Tiểu Bình bắt chước 300 năm sau vào cuối thập niên 1970 khi ông đề nghị đạt tới một “sự yên bình nhỏ” cho Trung Hoa vào cuối năm 2000.

Nếu có một khía cạnh của truyền thống chính trị mà Trung Quốc và Việt Nam chia sẻ là những trí thức nhà nước tự nhận có thể hoạch định tương lai tốt hơn dựa trên việc tính toán thời gian hợp lý, thì một khía cạnh khác của truyền thống ấy là niềm tin vào quyền lực tập trung. Ở cả hai nước, huyền thoại về một vương quốc chịu sự kiểm soát của quyền lực trung ương có hấp lực mạnh hơn là những gì diễn ra trong thực tế. Trong hai ngàn năm từ 221 trước Công nguyên đến 1800 sau Công nguyên, người ta có thể tính toán là Trung Quốc có một chính quyền trung ương có ảnh hưởng thật sự trong gần một nửa thời gian, sau khi ta đã trừ đi các thời kỳ như giai đoạn Lục Triều, loạn An Lộc Sơn, thời Tống – Liêu và sự hỗn loạn vào cuối thời cai trị của Mông Cổ thế kỷ 14. Tại Việt Nam, các vị vua có quyền hành tập trung như Lê Thánh Tông (1460-1497) và Minh Mạng trong đầu thế kỷ 19 không mang tính đại diện cho nền quân chủ bằng thất bại của các triều vua muốn áp đặt một sự thống nhất gây thoả mãn về chính trị lên đất nước từ khoảng năm 1528 đến 1802. Thế nhưng lý tưởng về một quyền uy hoàng đế liên tục, tập trung, có tư cách như một sự thống nhất chính trị vẫn có một ảnh hưởng to lớn. Nó khuyến khích sự thể hiện một ý chí quốc gia từ thượng tầng lãnh đạo, một ý chí mà sẽ là xa lạ trong thế giới của các ông hoàng Mã Lai hay Ấn Độ - hay thậm chí cả trong thế giới của đa số các vương quốc miền nam châu Âu trước năm 1800. Nỗ lực của vị vua sáng lập nhà Minh để tạo các trường học cộng đồng tại làng xã trên toàn cõi Trung Hoa năm 1376 chỉ mới là một ví dụ như thế về việc lan toả ý chí quốc gia của các vị hoàng đế thời tiền sử hiện đại; một ví dụ khác là của hai vị vua nhà Nguyễn đầu tiên chuẩn bị việc đăng ký đất đai cho khoảng 15.000 đến 18.000 làng và ấp (trong số này, khoảng 10.000 bộ sổ sách còn tồn tại đến nay).

Ở cả Trung Quốc và Việt Nam , niềm tin của giới tinh hoa về sự tập trung quyền lực đã phản ánh một quan niệm rộng hơn về nhà nước với tư cách một cơ quan độc quyền kết hợp quyền lực chính trị với việc truyền bá đạo đức hay tôn giáo. Cái vấn nạn của truyền thống lâu đời này là nó khiến người ta khó phát triển những lý thuyết về việc phân quyền và tản quyền. Tuy nhiên, trong chừng mực chứng tỏ hiệu quả của truyền thống này, nó đã giúp ngăn không cho các tôn giáo có tổ chức làm đứt đoạn sự thống nhất của Trung Quốc hay Việt Nam, theo cách mà các tôn giáo đã gây nên nội chiến ở Châu Âu thế kỷ 16 hay hiện đang đe doạ gây bất ổn trong thế giới Mã Lai – Indonesia hiện đại. Ngay cả hôm nay, sự khác biệt về quy mô giữa Phật giáo Đại Thừa ở Việt Nam và Phật giáo Tiểu thừa ở Thái Lan chứng tỏ những khác biệt vô cùng lớn trong vấn đề tôn giáo: chỉ có khoảng 20.000 tăng ni ở 4.000 chùa tại Việt Nam, trong khi có 200.000 sư, 100.000 đệ tử và 30.000 chùa ở Thái Lan. Dĩ nhiên tầm mức nhỏ hơn của Phật giáo Việt Nam một phần là do sự kiểm soát của chính quyền. Nhưng đằng sau chính quyền lại là một truyền thống chính trị mà ở đó các nhà sư được cấp phép và số lượng sư sãi thì bị các triều đình Việt Nam kiểm soát, bắt chước mô hình của các nhà cai trị Trung Hoa. Nói ngắn gọn, cả Trung Quốc và Việt Nam trong đầu thế kỷ 19 là những biến thể của chế độ quan lại giai đoạn hậu phong kiến, với truyền thống về bộ máy lãnh đạo chính trị - mà dù có định chế còn yếu kém xét theo tiêu chuẩn của thế kỷ 20 – đã ít bị thách thức bởi các tôn giáo có tổ chức hoặc bởi các dòng họ quý tộc thế tập so với đa số các bộ máy lãnh đạo chính trị ở các nơi khác trong khu vực.

Chuyển biến vai trò của tri thức thời hiện đại

Một điều quan trọng không kém là cần nhắc rằng Trung Quốc và Việt Nam thời tiền hiện đại, dù có chia sẻ nhiều điểm chăng nữa, thì cũng khác biệt với nhau nhiều hơn những gì mà chúng ta hiệnnay biết hoặc có thể biết, do kiến thức có được hiện nay còn sơ sài. Hệ thống chính trị của Việt Nam có một điểm khác biệt quan trọng. Những nhà cai trị của Việt Nam vừa là người đứng đầu cộng đồng(vua) lại vừa là hoàng đế kiểu Trung Hoa, tương đối giống các thủ lĩnh ở Đức tại châu Âu thời trung đại, những người tự gọi mình là các hoàng đế La Mã, hay giống các các hoàng thân Serbia tự gọi mìnhlà Sa hoàng. Do tính chất nhị nguyên (đế chế-cộng đồng) của hệ thống ở Việt Nam, giới nho sĩ Việt Nam , khác với người Trung Hoa, đã tỏ ra quan tâm hơn đến việc đại diện cho các truyền thống công xã.So với người Trung Hoa, sĩ phu Việt Nam ít quan tâm hơn đến những suy ngẫm siêu hình to lớn.

Trung Quốc và Việt Nam cũng chia sẻ một truyền thống của các cuộc cách mạng thế kỷ 20, vốn một phần là phản ứng trước cuộc khủng hoảng của chế độ quan lại Nho giáo. Các nhà cách mạng Trung Quốc và Việt Nam xem cách mạng của mình là phản đề trước chế độ quan lại, dẫu cho cuối cùng họ cũng lại sẽ trở thành hiện thân của một số những giấc mơ cũ của chế độ quan lại và bổ sung cho những giấc mơ này một nền tảng quần chúng. Các đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam , dựa vào sự bất bình của nông dân, đã bày tỏ một sự thù địch trước trí thức, những người bị cô lập khỏi lớp người nông dân. Cách mạng Trung Quốc do Mao Trạch Đông dẫn đầu, và cuộc cách mạng thô sơ hơn của Campuchia mà Mao gợi hứng một phần, đã công kích phẩm giá và tính hợp pháp của tầng lớp trí thức có học, mạnh hơn so với toàn bộ các cuộc cách mạng khác trong lịch sử. Để so sánh, cách mạng Pháp, vốn nổ ra trong hoàn cảnh tương tự với 80% dân số là nông dân, lại đưa đến việc thành lập các trường grandes écolesmà đến nay vẫn định hình giáo dục đại học Pháp. Trong cách mạng Xô-Viết, việc Stalin không tấn công trí thức với tư cách là một nhóm xã hội, và sự mở rộng giáo dục đại học mà Stalin khởi xướng, đã giúp Liên Xô tuyên bố mình chiếm một phần tư số khoa học gia trên thế giới vào năm 1984. […]

Kết quả là một trong những lực lượng xã hội đòi thay đổi chính trị tại Liên Xô trước năm 1991 - tầng lớp trí thức gồm bác sĩ, luật sư, kỹ sư và thấy giáo-như bản thân Gorbachev, lại mỏng hơn nhiều tại Trung Quốc. Thống kê của Trung Quốc cho thấy đến tận năm 1987, chỉ có 2% số thanh niên đến tuổi vào đại học là thật sự có học ở một đại học, so với 9% ở Ấn Độ và 11% ở Pakistan. Năm 1995, Li Ruihuan thừa nhận là ở đầu thập niên 1990, Trung Quốc chỉ dành 27% GDP cho giáo dục cơ bản; ông nghĩ là ở các nước “đang phát triển” tỉ lệ “trung bình” lẽ ra phải là 41%. Toàn bộ chuyện này là di chứng từ thời Mao, ngay cả khi ta đã tính hết các yếu tố ảnh hưởng khác. Tương tự ở Việt Nam , vào đầu thập niên 1990, tỉ lệ sinh viên so với toàn bộ dân số vẫn nhỏ hơn nước láng giềng Thái Lan.

Thế còn chủ nghĩa Mao đã có ảnh hưởng ra sao tại Việt Nam ? Khó mà nghĩ ra được một câu hỏi nào nhạy cảm hơn thế trong sự nghiên cứu về Việt Nam hiện đại. Các nhà nghiên cứu nước ngoài nhã nhặn (hoặc thiếu hiểu biết) ít khi nêu vấn đề này; tự thân người Việt Nam thì không muốn thảo luận nó trừ phi là nói gián tiếp. Trong một cuốn sách gần đây về việc chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở Việt Nam , giáo sư Đào Xuân Sâm mở đầu bằng lời dẫn về sự phi thường của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ông cho rằng, so với các nước khác (nên hiểu là Trung Quốc), các sai lầm ở Việt Nam (cải cách ruộng đất, tập thể hoá, tham nhũng công chức) được sửa chữa “sớm hơn” và xảy ra “ở mức độ ít tai hại hơn”; xu hướng “ấu trĩ tả khuynh” và “chủ nghĩa xã hội nhà nước” có tồn tại, nhưng được ngăn chặn nhờ phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh và “những khát vọng dân chủ” trước khi ông qua đời năm 1969, và kể từ đó, mọi sự mới tồi tệ hơn. […]

Ông Hồ cũng không công khai la mắng các trí thức lớn như cách Mao đối xử với Liang Shuming năm 1953; ông Hồ không có sự thù địch cá nhân như Mao đối với giai tầng quan lại cũ. Thực tế, với người cha đỗ phó bảng, ông trực tiếp xuất thân từ giai cấp ấy. Lịch sử Khổng giáo ở Việt Nam thế kỷ 20, khi so với Trung Quốc, giản đơn hơn về mặt tri thức nhưng phức tạp hơn về mặt xã hội. Có một sự phân hoá sáng tạo và đạo đức mãnh liệt hơn ở Việt Nam (so với ở Trung Quốc) giữa giới xu thần nắm quyền và giới sĩ phu lánh đời, những người có thể phục vụ chúa thượng hoặc làm phản, như Cao Bá Quát, tuỳ theo cách họ nghĩ về chúa thượng ra sao. Không thể xác định được điều này phụ thuộc bao nhiêu vào các khác biệt trong cấu trúc xã hội, và phụ thuộc bao nhiêu vào “tâm lý” dân tộc. Truyền thống sĩ phu Việt Nam không cho phép một sự giễu cợt các thầy giáo làng như kiểu được tìm thấy trong văn chương đời Minh-Thanh ở Trung Quốc, nơi mà đô thị hoá mạnh hơn đã tạo nên một lớp học giả thành công biệt lập nơi đô thị, để lại nông thôn cho giới nho sĩ vất vả, nghèo túng hơn.

Chế độ thuộc địa Pháp ở Đông Dương đã kết nạp Nho giáo Việt Nam ở mức độ triều đình, nhưng không bao giờ có được sự kiểm soát toàn bộ đối với giới sĩ phu rất quan trọng ở nông thôn. Năm 1939, nhà trí thức có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản, Đào Duy Anh, viết một cuốn sách khẳng định rằng Khổng giáo, tuy đã lạc hậu, đã củng cố hồn dân tộc và giúp cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Năm 1962, một trí thức khác, Nguyễn Khắc Viện, công khai nói rằng các nhà Mác-xit đầu tiên của Việt Nam xuất thân từ hàng ngũ nho sĩ làng, và rằng có một “mối quan hệ trong tư tưởng” giữa chủ nghĩa cộng sản và Khổng giáo “chân chính”. Tại Trung Quốc thời Mao, sẽ không một trí thức nào dám viết một điều gì tương tự như vậy. […] Trớ trêu thay, chủ nghĩa Mao có thể đã bắt rễ tại Việt Nam còn vì những lý do thuần Việt. Chính quyền Đông Pháp đã cố ý duy trì các kỳ thi kiểu truyền thống ở Việt Nam cho đến năm 1919, hơn một thập niên sau khi hệ thống thi cử ở Trung Quốc đã bị bãi bỏ. Nhiều trí thức Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã ứng thí và rồi trở thành nhân viên được trả lương của chế độ thực dân-số lượng này đủ nhiều để xoá bỏ ý niệm về một lớp học giả quan chức yêu nước, nếu chưa phải đã xoá hẳn cả truyền thống Khổng giáo. Vì thế chủ nghĩa Mao ở Việt Nam có thể đem lại một nền tảng lý thuyết cho sự chống lại giai tầng công chức quan lại, giờ đây bị nhiều người quốc gia xem là đầy tớ của ngoại bang (Trung Quốc chưa bao giờ bị đô hộ hoàn toàn, vì thế Trung Quốc không biết đến một sự chống đối dân tộc chủ nghĩa tương tự nhắm vào ý niệm quan lại).

Kết quả là nhà nước xã hội chủ nghĩa ở cả Trung Quốc và Việt Nam nghiêm túc làm thui chột hệ thống tuyển chọn nhân tài cũ dựa trên thi cử, vốn là một phần trong văn hoá truyền thống của họ; các cuộc cách mạng từ bên dưới công khai chống lại các viên quan được tuyển chọn từ thi cử, ở một mức độ mãnh liệt hơn khi so với việc các nhà cách mạng cộng sản ở Nga và Đông Âu tấn công giai tầng quý tộc cũ. Chỉ đến gần đây (1987 ở Trung Quốc, và 1991 ở Việt Nam ) hai nhà nước mới bắt đầu khôi phục hệ thống tuyển mộ công chức như một cách kiểm tra cán bộ. Những cán bộ đảng […] thường ít bị sát hạch hơn và cũng như ít bị kiểm tra hơn so với các viên quan thời xưa.

Các trí thức cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam chắc chắn rất muốn có sự khôi phục thật sự vị trí lịch sử của họ trong xã hội. Vị trí của họ vẫn bất an. Việc lập thuyết là biểu hiện khao khát có đặc quyền, mà điều này lại có tiềm năng thiếu tính sâu sát dân chúng và phản dân chủ. Họ phải sống qua nhiều thập niên của sự nghi ngờ kiểu Mao đối với vai trò của họ trong những xã hội nông dân nghèo, sống qua thời kỳ “xét lại”. Gần một nửa số trí thức Việt Nam được Viện Khoa học Xã hội Hà Nội khảo sát năm 1990 than phiền rằng các cơ quan kinh tế nhà nước không thấy giá trị thực tiễn của trí óc.

Nguồn: Xưa và Nay, số 245, tháng 10-2005

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất về cơ cấu, số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI
Ngày 4/12, tại Hà Nội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thảo luận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI.
Triển khai thực hiện các văn bản mới của Trung ương về về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Chiều 4/12 tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiêp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị quán triệt và triển khai Quy định 367-QĐ/TW và Hướng dẫn số 05 - HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.
Phổ biến những điểm mới các Luật, Nghị định
Sáng 4/12/2025, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo Phổ biến các văn bản tới các Hội thành viên, Liên hiệp Hội địa phương và Tổ chức khoa học và công nghệ. Đây là hoạt động thường niên của Liên hiệp Hội Việt Nam nhằm cập nhật thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị trong cùng hệ thống.
Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ trồng cây lâm nghiệp cảnh quan và Phát triển nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai
Ngày 01/12/2025, tại tỉnh Gia Lai, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai và tổ chức Face the Future (Hà Lan) tổ chức Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ Trồng cây Lâm nghiệp Cảnh quan và Phát triển Nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai (GLAD).
AI - Đạo đức và an toàn trong kỷ nguyên mới
Chiều 2/12 tại Hà Nội, mở đầu chuỗi tọa đàm “Khoa học vì cuộc sống” của Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2025 đã diễn ra buổi tọa đàm với chủ đề: “Trí tuệ nhân tạo (AI) vì nhân loại - Đạo đức và an toàn AI trong kỷ nguyên mới”. với thông điệp “Cùng vươn mình - Cùng thịnh vượng” tiếp tục truyền cảm hứng đổi mới vì con người.