Sẽ còn mãi những tinh hoa Hà Nội
Lịch sử Việt Nam và các nước như Pháp đã hầu như không nhắc tới những sự kiện như Thành, Quốc Tử Giám, và Trường thi Hương của Hà Nội từng bị phá dỡ trong cuộc xâm lược lần thứ nhất của Pháp, rồi chùa Một Cột bị đánh sập khi họ phải vĩnh viễn rút khởi đây… Và bên cạnh những tàn phá trong cuộc tiến công Hà Nội của Pháp cuối năm 1946, những hủy diệt của cuộc B-52 rải thảm nội thành… những tái thiết dưới ảnh hưởng của Liên Xô sau chiến tranh, và nền kinh tế thị trường sau Đổi mới đang bào mòn đi một dấu ân kinh kỳ…
Nhiều biểu hiện của Hà Nội cổ mang tính hình tượng, hơn là sát với chính sử. Các truyền thuyết, truyện cổ, truyện dân gian, và cả những giai thoại của thời hiện dại, đã biến Hà Nội thành một thành phố đặc biệt. Tầm quan tọng của các di sản có được nhờ khu phố cổ thuộc về niềm tin vào giá trị lịch sử của nó, hơn là vào hình hài hiện có. Điều thiết yếu là người Hà Nội phải duy trì được niềm tin đó, vì đây chính là một phần tài sản phi vật thể mà họ được thừa kế, và chính là chìa khóa mở cánh cửa kho báu văn hóa của người Tràng An. Tuy nhiên,như tác giả Nguyễn Vĩnh Cát đã chỉ ra trong một điều tra của ông vào năm 1993, trong số 2345 căn nhà hiện hữu ở khu phố này, chỉ còn 7% là nhà xây trước năm 1900, 9% là nhà được xây trong khoảng 1900 - 1930, còn 84% còn lại đều là những nhà xây sau năm 1930…
Sự vắng mặt các yếu tố lịch sử mang tính xác thực không chỉ tại khu phố cổ, mà cả Hà Nội nói chung, là có tính phổ biến, xuất phát từ hoạt động tu sửa các công trình, do giáo chức và giới chức Hà Nội tiến hành trong suốt chiều dài lịch sử. Sự thiếu vắng rõ rệt của tính xác thực về lịch sử, hay tính nguyên vẹn về kiến trúc, là trở ngại chính cho công tác của các nhà bảo tồn thiên nhiên phương Tây. Trong mắt họ, vai trò tác dụng của khu phố cổ đã bị suy mòn, và việc tìm tòi luận cứ giúp các nhà bảo tồn di sản có thể áp dụng để tranh biện với giới chủ trương quy hoạch lại, vì thế trở nên khó khăn. Điều này là do sự khác biệt trong quan niệm về tính xác thực của di sản, tạo nên một sự tương phản rõ rệt trong cách tiếp cận về bảo tồn di sản giữa hai trường phái, một bên là phương Tây, và bên kia là tập quán Á Đông.
![]() |
Cách tiếp cận truyền thống phương Tây được khái quát trong Hiến chương Venice (về bảo tồn và phục chế các danh lam, di tích lịch sử, ICOMOS). Hiến chương này nhấn mạnh tính xác thực của kết cấu tự nhiên của danh lam, di tích lịch sử. Khi phải dùng thêm vật liệu mới cho một hạng mục di tích, chúng phải được phân biệt rõ với các vật liệu ban đầu.
Cách tiếp cận Đông Á hiện nay dựa trên Văn kiện về Lưu trữ quốc gia và hồ sơ Chính phủ, tên tiếng Anh là Document of Nara, được các nước gia nhập UNESCO và ICOMOS về sau này, như Việt Nam, ký kết gần đây. Văn kiện về Lưu trữ quốc gia và Hồ sơ Chính phủ (NARA) đã chú trọng hơn vào việc tôn trọng nguyên bản của di tích và biểu tượng của nó, bằng việc duy trì các điều kiện thi công, hoặc chí ít điều kiện của lần trùng tu trước đó, gồm cả những kỹ năng thủ công đòi hỏi phải có để tu bổ các công trình mang tính truyền thống dân tộc. Nói cách khác, những khía cạnh phi vật thể của lịch sử của một di tích, danh lam, gồm cả các yếu tố thần thoại hay hình tượng, nay được nâng lên một vị thế cao hơn trong khi xác định tầm quan trọng của di tích lịch sử.
![]() |
Văn Miếu chẳng hạn, đã được trùng tu và sửa chữa nhiều lần trong khoảng 900 năm. Nhưng biểu tượng ban đầu của nó vẫn được bảo tồn, và trong những lần can thiệp, các kỹ năng truyền thống đã được sử dụng. Nhưng những bổ sung đáng kể vào nguyên dạng của công trình này đã xảy ra. Cho tới thế kỷ XVII, Văn Miếu mới chỉ gồm ba sân. Dưới thời Gia Long, khuôn viên Văn Miếu được mở rộng, công trình này được tu chỉnh, và hai sân ở mặt tiền được xây thêm. Khuôn viên Văn Miếu từ đó gồm năm ngăn, nhấn mạnh con số 5 vốn có ý nghĩa đặc biệt trong Khổng giáo (như Ngũ hành, Ngũ kinh, Ngũ thường, Ngũ luân, Ngũ khổ, Ngũ căn…). Đến thời Gia Long, tường rào được thay bởi lớp tường bằng gạch lấy từ các công trình xây Thành gần đó.
Sự thay đổi Văn Miếu tiếp diễn cho tới hôm nay. Năm 1993 - 1994, tám ngôi đình chứa những tấm bia đá ghi tên họ của cá vị Tiến sĩ trong khuôn viên Văn Miếu đã được xây lại. Các văn tự cổ cho biết tám ngôi đình này đã tồn tại từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX.
Theo các tiêu chuẩn phương Tây, cách phục chế mà thực chất là xây lại, như đã làm với các ngôi nhà cho bia Tiến sĩ ở Văn Miếu là không đảm bảo được tính xác thực. Nhưng với điều kiện Việt Nam, điều này lại được mong đợi, không chỉ để duy trì cảnh quan của một di tích lịch sử, mà còn để tránh cho những văn bia khỏi bị tiếp tục phong hóa. Đã phải mất tới 20 năm tiến hành thảo luận giữa các chuyên gia Việt Nam và đồng nghiệp quốc tế của họ, để rồi vào năm 1992, Trung tâm thiết kế bảo quản tu bổ công trình văn hóa (nay là Viện Bảo tồn Di tích), mới soạn thảo xong một bản thiết kế tám ngôi đình che bia Tiến sĩ tại Văn Miếu. Không có một bản vẽ nào về các ngôi đình này ở thế kỷ XVIII còn giữ được, vì thế việc phục chế chúng về thực chất là một nỗ lực kết hợp phong cách kiến trúc hiện có của Văn Miếu với những phương thức thi công nhà theo truyền thống Việt Nam. Công việc xây dựng tám ngôi đình đã được tiến hành trong hai năm 1993 - 1994, với một nửa kinh phí là vốn đối ứng của Bộ Văn hóa Việt Nam, nửa kia do công ty Express Company của Hoa Kỳ tài trợ.
Thật không dễ để chọn niên đại nào khi tu bổ các hạng mục của một công trình di tích. Trong trường hợp của Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Việt Nam đã lấy bố cục của nó ở thế kỷ XIX làm sơ đồ mặt bằng cho việc tái tạo công trình tiêu biểu cho Hà Nội này.
![]() |
Mặc dù vậy, các lợi ích, giá trị về phương diện di sản của Hà Nội không chỉ nằm ở các công trình tiêu biểu cho nó, mà còn thuộc về tổng hòa của các yếu tố lịch sử và đời sống xã hội có liên quan đến các giá trị di sản nữa. Điều thiết yếu với Hà Nội nay là, phải chế ngự được các yếu tố phát triển nào đang làm biến đổi dáng dấp của khu vực nội thành. Một nhịp độ và cung cách phát triển đô thị như ở Hà Nội hiện nay, nếu không tạo được những tiền đề cho hồi tiếp những phẩm chất tự nhiên và xã hội, sẽ phá hủy về cơ bản bản sắc của thành phố này. Sẽ dẫn tới trào lưu di chuyển các công dân truyền thống của Hà Nội khỏi thành phố thân thuộc, để nhường chỗ cho tầng lớp trung lưu mới nổi, và các nhà nghỉ, khách sạn mini, và tới sự sụp dổ của hạ tầng cơ sở hiện có.
Vấn đề đang làm đau đầu các chuyên gia kế hoạch hóa công tác bảo tồn di sản trên khắp thế giới là, liệu có thể bảo tồn được không, môi trường xã hội của một địa danh. Trong trường hợp Hà Nội, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam đang đối diện với yêu cầu phải quyết định xem quy mô nào của khu vực các phố cổ, nhà cổ, sẽ nên được chuyển thành một khu phố - bảo tàng, nơi mà thời gian dường như dừng lại.











