Sáng chế của Việt Nam: Đăng ký quốc tế quá ít
Trong 10 năm qua, các nước Đông Bắc Á được đánh giá nổi lên thành những trung tâm mới về sáng chế của thế giới, với tỉ lệ số đơn đăng ký ra nước ngoài ngày càng tăng. Trong khi đó, sau hơn 30 năm là thành viên của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), nhưng số lượng đơn đăng ký sáng chế ra nước ngoài của Việt Nam vẫn còn rất “khiêm tốn”.
![]() |
| Năm 2007, Nhật có 27.731 đơn đăng ký sáng chế Hàn Quốc có 7.061 đơn Trung Quốc có 5.456 đơn và Việt Nam có... 5 đơn! |
Để nâng cao năng lực của hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT)quốc gia, trong nhiều năm qua, Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam (National Office of Intellectual Property of VietNam - NOIP)đã nỗ lực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực SHTT, với các nước như Mỹ, Nhật,Thuỵ Sĩ, và với các tổ chức như Liên minh châu Âu, Cơ quan Sáng chế Châu Âu (EPO)... nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách về SHTT, trang bị cáckiến thức cần thiết về SHTT cho các doanh nghiệp,
Đơn sáng chế đã được nộp ở NOIP từ 2000 đến 2007
Năm | Người VN nộp đơn | Người nước ngoài nộp đơn | Tổng số |
2000 | 34 | 1205 | 1239 |
2001 | 52 | 1234 | 1286 |
2002 | 69 | 1142 | 1211 |
2003 | 78 | 1072 | 1150 |
2004 | 103 | 1328 | 1431 |
2005 | 180 | 1767 | 1947 |
2006 | 196 | 1970 | 2166 |
2007 | 219 | 2641 | 2860 |
Đồng thời, sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam – bao gồm các qui định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó – đã tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển của các hoạt động SHTT tại Việt Nam.
Sau khi Luật này có hiệu lực vào ngày 1/7/2006, số đơn đăng ký sáng chế nộp cho NOIP đã tăng mạnh trong năm 2007, phản ánh một xu hướng tích cực trong hoạt động sở hữu trí tuệ và cũng cho thấy khả năng sáng tạo của người Việt trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật đang được cải thiện. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, có sự chênh lệnh rất lớn giữa số đơn do người Việt Nam nộp và số đơn do người nước ngoài nộp. Trong năm 2007, số đơn của người Việt chiếm chưa tới 8% tổng số đơn.
Song, điều đáng quan tâm là số đơn đăng ký PCT (Patent Cooperation Treaty – PCT- xem giải thích ở Box bên dưới) từ Việt Nam ra nước ngoài đã không song hành với mức tăng của đơn đăng ký sáng chế trong nước.
Trong nhiều năm qua, Singapore luôn dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về số đơn đăng ký sáng chế theo PCT.
Theo số liệu của WIPO, trong giai đoạn 2002-2007, tổng số đơn PCT của Singapore là 2.504 đơn, Malaysia có 264 đơn, Philippines 116 đơn, Thái Lan 53 đơn, trong khi Việt Nam chỉ có vỏn vẹn... 26 đơn.
Đông Bắc Á vươn lên
Theo các báo cáo của WIPO, từ năm 2002 đến nay, tỉ lệ phát triển rất cao về số lượng đơn đăng ký quốc tế sáng chế theo PCT (Hiệp ước Hợp tác sáng chế) được ghi nhận ở các nước Đông Bắc Á, nhất là Hàn Quốc và Trung Quốc. Hiện nay, hai nước này cùng với Nhật đang nằm trong nhóm 10 nước xuất xứ có số lượng đơn đăng ký quốc tế PCT (đơn PCT) nhiều nhất.
Đơn sáng chế PCT của một số nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á
Nước | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 |
Nhật | 14.063 | 17.414 | 20.264 | 24.869 | 27.033 | 27.731 |
Hàn Quốc | 2,520 | 2,949 | 3.558 | 4.688 | 5.944 | 7.061 |
Trung Quốc | 1.018 | 1.295 | 1.706 | 2.503 | 3.951 | 5.456 |
Singapore | 330 | 282 | 431 | 443 | 476 | 542 |
Malaysia | 18 | - | 45 | 38 | 60 | 103 |
Philippine | 20 | 21 | 11 | 26 | 23 | 15 |
Thái Lan | 9 | 7 | 12 | 9 | 11 | 5 |
Indonesia | 16 | 2 | 6 | 8 | 8 | 9 |
Việt Nam | 2 | 7 | 2 | - | 10 | 5 |
Hàn Quốc, với mức tăng đơn PCT trong năm 2006 là 26,6% so với năm 2005, đã vượt qua Anh và Pháp để giành lấy vị trí thứ 4 trong bảng xếp hạng của WIPO về nước xuất xứ của đơn PCT, chỉ sau 3 “đại gia” vốn chiếm giữ các ngôi đầu trong nhiều năm qua là Mỹ, Nhật và Đức. Tương tự, Trung Quốc, với mức tăng là 56,8%, đã thế chỗ Thuỵ Sĩ và Thuỵ Điển để giữ hạng 8 trong danh sách.
Sang năm 2007, Hàn Quốc tiếp tục giữ vị trí thứ 4, trong khi Trung Quốc vượt lên đứng hạng 6 trong danh sách 15 nước xuất xứ hàng đầu về PCT. Ba thứ hạng đầu vẫn không thay đổi, và Mỹ vẫn giữ hạng 1 với số đơn PCT chiếm đến 33,5% trong tổng số đơn PCT của toàn thế giới.
![]() |
| Ở Việt Nam số người quan tâm tới sáng chế nhiều, nhưng đơn đăng ký sáng chế ít. |
Theo WIPO, xu hướng của hoạt động sáng chế là dấu hiệu phản ánh sự chuyển đổi đang diễn ra trong hoạt động công nghiệp trên toàn thế giới. Ở từng nước, tình hình phát triển của hoạt động đăng ký sáng chế quốc tế phản ánh khả năng hội nhập của nước đó vào hoạt động công nghiệp toàn cầu.
Do đó, nếu xem xét theo cách nhìn này của WIPO thì Việt Nam , với số lượng đơn PCT quá ít như hiện nay, vẫn chưa thực sự bước vào vòng quay ngày càng nhanh của nền công nghiệp thế giới.
Sơ Lược về Hiệp ước hợp tác về sáng chế (PCT)
Hiệp ước hợp tác về sáng chế ( Patent Cooperation Treaty – PCT) được ký tại Washington vào ngày 19/6/1970, có hiệu lực từ ngày 24/1/1978, và được bổ sung, sửa đổi trong các năm 1979, 1984 và 2001. Tinh đến 3/4/2008, PCT có 139 quốc gia thành viên. Việt Nam là thành viên của PCT từ ngày 10/3/1993.
PCT tạo điều kiện cho người nộp đơn có thể đồng thời đăng ký sáng chế ở các nước thành viên, khởi đầu bằng việc nộp đơn quốc tế cho cơ quan nhận đơn, trong đó có chỉ định các nước mà người nộp đơn muốn sáng chế được bảo hộ. Ở từng nước này, đơn quốc tế nói trên có giá trị như là đơn quốc gia nộp trực tiếp cho cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia (tại nước ta là Cục Sở hữu trí tuệ - NOIP).
Đơn xin bảo hộ sáng chế ở bất kỳ nước thành viên nào của Hiệp ước được gọi là “Đơn quốc tế”. Đơn này phải được viết bằng ngôn ngữ quy định, phải đáp ứng được các yêu cầu về mặt hình thức và tính thống nhất của sáng chế. Kèm theo đơn quốc tế là các tài liệu: Bản mô tả sáng chế, một hoặc một số yêu cầu bảo hộ, một hoặc số bản vẽ, và lệ phí theo qui định của Hiệp ước.
Ngay sau khi nhận đơn, cơ quan nhận đơn phải kiểm tra xem sáng chế nêu trong đơn có thuộc diện sáng chế bí mật theo quy định của nước mình hay không. Nếu sáng chế này thuộc diện bí mật thì cơ quan nhận đơn sẽ thông báo cho người nộp đơn biết rằng đơn đó không được nộp theo PCT.
Theo quy định của Hiệp ước, các nước thành viên sẽ từ chối không cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế được nêu trong đơn quốc tế trong những trường hợp: Việc bảo hộ sáng chế đó là trái với pháp luật của nước thành viên được yêu cầu bảo hộ; Việc bảo hộ sáng chế đó ảnh hưởng tới an ninh quốc gia hoặc các quyền lợi kinh tế của nước thành viên được chỉ định. (Nguồn: WIPO; Wikipedia)
Nguồn: vnn.vn 13/5/2008










