Sản xuất và tiêu thụ thép ở Việt Nam năm 2006, dự kiến năm 2007
1. Tình hình sản xuất tiêu thụ các sản phẩm thép của cả nước năm 2006
Sản xuất và tiêu thụ thép xây dựng của toàn Hiệp hội thép năm 2006 là 2.867.885 triệu tấn, nếu kể cả các cơ sở sản xuất ngoài Hiệp hội thép là khoảng 600.000 tấn thì tổng số lượng thép xây dựng (thép cuộn và thanh) tiêu thụ của cả nước năm 2006 là 3.450.000 – 3.500.000 tấn. Lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2006 khoảng 100.000 tấn (chủ yếu là thép cuộn). Như vậy, tổng lượng thép tiêu thụ ở Việt Nam năm 2006 là từ 3.550.000 tấn đến 3.600.000 tấn. So với năm 2005, sản lượng thép tiêu thụ trong nước và xuất khẩu của các cơ sở sản xuất trong Hiệp hội tăng 13% của toàn quốc so với năm 2005 tăng 15%.
Lượng tiêu thụ ống thép trong Hiệp hội cả năm 2006 là 240.662 tấn, cả nước khoảng 400.000 tấn, so với năm 2005 tăng 11,4%.
Lượng tiêu thụ các sản phẩm tôn mạ và tôn màu của Hiệp hội năm 2006 là 544.138 tấn, của cả nước khoảng 670.000 tấn, so với năm 2005 tăng > 20%.
Nhìn chung, tình hình tăng trưởng thép của Việt Nam không cao, nhưng là nước duy nhất trong Hiệp hội Thép Đông Nam Á có tăng trưởng, các nước khác trong khối Đông Nam Á ngành thép đều có tăng trưởng âm (theo báo cáo của Hiệp hội Thép Đông Nam Á tại kỳ họp tháng 11/2006 ở Indonesia).
2. Tình hình nhập khẩu
Năm 2006 Việt Nam nhập khẩu phôi thép khoảng 1,8 triệu tấn (so với năm 2005 giảm 300.000 tấn) nhờ tăng lượng phôi sản xuất trong nước (năm 2006 ước sản xuất phôi trong nước 1,4 triệu tấn).
Tổng lượng thép thành phẩm nhập khuẩu cả nước khoảng 3,9 triệu tấn, chủ yếu là nhập khẩu thép tấm lá và thép chế tạo, với tổng trị giá 1 tỷ 998 triệu USD. Do thép Trung Quốc giá rẻ, lượng thép xây dựng và thép dây nhập khuẩn năm 2006 đã trên 28 vạn tấn, giá trị trên 120 triệu USD.
3. Đặc điểm tình hình sản xuất và tiêu thụ thép năm 2006
Giá thép có biến động nhưng không đột biến, có xu hướng tăng cao về cuối năm do giá phôi nhập khẩu cao; giá phôi thép cuối năm nhập từ Trung Quốc: loại Q235 giá 430-435 USD/tấn CFR cảng Việt Nam; loại phôi 20MnSi 440-450 USD/tấn CFR cảng Việt Nam .
Giá thép xây dựng thành phẩm ở thị trường trong nước cuối tháng 12/2006:
Chủng loại | Công ty Miền Bắc | Công ty Miền Nam | ||
GTTN | Liên doanh | ThépMN | Liên doanh | |
Thép tròn đốt | 7.900 | 8.000 | 8.450 | 8.500 |
Thép cuộnf6 | 7.550 | 7.7500 | 7.820 | 8.030 |
Lượng phôi nhập khẩu vẫn còn lớn (chiếm 70%) và chủ yếu nhập từ Trung Quốc (trên 70%), không giống các năm trước nhập phôi chủ yếu từ Nga và Ukraina. Vào những tháng cuối năm, Trung Quốc điều chỉnh chính sách xuất khẩu hạn chế xuất khẩu phôi thép nên đã nâng thuế phôi xuất khẩu từ 5% lên 10% (và dự định sẽ nâng tiếp lên 15%) làm cho giá phôi xuất khẩu cho Việt Nam từ tháng 11/2006 cao hơn giá thép thành phẩm xuất khẩu từ 40 đến 50 USD/tấn gây khó khăn cho sản xuất trong nước.
Năm 2006, thép Trung Quốc dư thừa lớn nên đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước, trong đó có Việt Nam . Tuy nhiên vẫn chủ yếu xuất khẩu thép cuộn vì người tiêu dùng Việt Nam chưa quen sử dụng thép cây Trung Quốc.
Khác với năm 2005, năm 2006 nhiều công ty sản xuất và kinh doanh thép có hiệu quả, tuy mức độ có khác nhau (chỉ trừ một số công ty mới đi vào sản xuất các công trình đầu tư lớn, đang trong giai đoạn sản xuất thử, hoàn chỉnh thiết bị và trả nợ vốn vay đầu tư). Có một số công ty đạt hiệu quả tốt như Vinakyoei, Tây Đô, Gang Thép Thái Nguyên, Pomina, Tôn Phương Nam, Tôn Hoa Sen, ống Hòa Phát, Vinapipe...
Các công trình đầu tư cho lò điện sản xuất phôi trong nước để giảm lượng phôi thép nhập khẩu đã được triển khai đồng loạt. Một số đã đi vào sản xuất và vận hành thuận lợi như Công ty cổ phần thép Đình Vũ, Công ty TNHH thép Vạn Lợi; một số công ty khác như thép Việt, Cửu Long, Việt - Ý đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng để sớm đi vào sản xuất trong năm 2007 - 2008.
Hy vọng trong năm 2007 sẽ tăng lượng phôi sản xuất trong nước lên 1,7 triệu tấn; năm 2008 tăng lên 2,4 - 2,5 triệu tấn phôi/năm; năm 2009 đạt 3,3 triệu tấn; năm 2010 đạt 3,6 triệu tấn phôi.
4. Một số khó khăn trong năm 2006
Luật Môi trường gây trở ngại cho nhập khẩu thép phế; phải vất vả tốn kém (tiêu cực) mới giải quyết được ách tắc ở cảng và hải quan, hiện đang chờ thông tư hướng dẫn của Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường và Bộ Thương mại. Hiệp hội thép đang tích cực kiến nghị với nhà nước sớm ra thông tư hướng dẫn nhập khẩu thép phế cho ngành thép để việc thực thi nhập khẩu thép phế thông thoáng hơn, bảo đảm thực hiện có hiệu quả trong việc nâng cao năng lực sản xuất phôi trong nước, giảm bớt lượng phôi nhập khẩu.
Giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết ASEAN + Trung Quốc; ASEAN + Hàn Quốc sẽ làm cho tính cạnh tranh trong ngành thép càng khốc liệt. Đã xuất hiện gian lận thương mại trong nhập khẩu thép lá cán nguội từ các nước ASEAN (để được hưởng thuế suất bằng 0%).
Thép cuộn Trung Quốc đã nhập vào Việt Namvới giá rẻ hơn tới 500.000 đồng/tấn so với thép cuộn Việt Namsản xuất làm cho sản xuất và tiêu thụ thép cuộn Việt Nam giảm thấp trong năm 2006. Hiện tại đã xuất hiện hiện tượng thuê công ty Trung Quốc “gia công”, thực chất là nhập thép cây Trung Quốc, gắn nhãn hiệu Việt Namđể dễ tiêu thụ, có thể dẫn đến tình trạng tràn ngập thép cây Trung Quốc vào thị trường Việt Nam .
5. Dự kiến sản xuất và tiêu thụ thép năm 2007
Thép thanh và thép cuộn: các công ty trong Hiệp hội Thép năm 2007 dự kiến sẽ sản xuất và tiêu thụ 3,2 - 3,3 triệu tấn, so với 2006 tăng 10 - 12%, kể cả các cơ sở ngoài Hiệp hội Thép, cả nước sẽ sản xuất và tiêu thụ 3,8 - 3,9 triệu tấn, tăng 11 - 13% so với năm 2006.
Ống thép: các công ty trong Hiệp hội Thép dự kiến sản xuất 264.000 tấn, so với năm 2006 tăng 10%. Kể cả các công ty ngoài Hiệp hội, thì cả nước sản xuất và tiêu thụ ống thép năm 2007 sẽ là 440.000 tấn, tăng so với 2006 là 10%.
Thép lá cán nguội năm 2007 dự kiến là 250.000 tấn, tăng so với năm 2006 là 12%.
Thép lá mạ kẽm và phủ màu trong Hiệp hội năm 2007 dự kiến sẽ là 451.000, tăng so với năm 2006 là 10%. Nếu kể cả các công ty ngoài Hiệp hội Thép thì năm 2007 sẽ sản xuất và tiêu thụ thép mạ và phủ màu sẽ là 736.000 tấn, tăng so với 2006 là 10%.
Sở dĩ năm 2007, Hiệp hội Thép dự báo ngành thép vẫn tiếp tục có tăng trưởng vì các lý do sau:
- Tăng trưởng GDP cả nước vẫn tiếp tục giữ ở mức 8,2% đến 8,5%.
- Nguồn ODA cao hơn năm 2006 theo cam kết là 4,4 tỷ USD.
- Việt Nam đã gia nhập WTO, thu hút đầu tư từ nước ngoài (FDI) sẽ tăng hơn 2006. (Năm 2006, FDI cả nước đạt 10, 2 tỷ USD).
- Đầu tư bất động sản sẽ có chuyển biến hơn so với 2006.
Tuy nhiên việc xuất khẩu ồ ạt thép thành phẩm giá rẻ từ Trung Quốc vào Việt Nam vẫn luôn là mối đe dọa thường trực. Việt Nam cần phải nhanh chóng xây dựng rào cản kỹ thuật để bảo hộ sản xuất trong nước đồng thời cần đẩy mạnh tiến độ xây dựng các cơ sở sản xuất phôi trong nước để thoát dần sự phụ thuộc phôi thép nhập khẩu của nước ngoài.