Sản phẩm rừng ngoài gỗ và việc quản lý sử dụng
Sản phẩm rừng ngoài gỗ - SPRNG (Non – Wood Forest Products) còn bao gồm các bãi cỏ chăn nuôi, các hoạt động vui chơi giải trí, các giá trị thẩm mỹ được kết hợp với các cách sử dụng truyền thống. Tính hữu dụng của SPRNG có phạm vi rộng lớn: Thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vải sợi làm quần áo chăn màn, dầu sơn, nước hoa mỹ phẩm, nhựa, thuốc nhuộm, bột tẩy, thuốc tẩy uế. Còn có rất nhiều các đặc tính sinh thái học, lâm sinh học của nhiều loài cây cho sản phẩm rừng ngoài gỗ nhưng vẫn chưa biết được.
SPRNG cung cấp vật chất thiết yếu cho nhiều cộng đồng dân cư đang sinh sống trong hoặc gần rừng. Việc quản lý SPRNG không chỉ dựa trên mục tiêu kinh tế mà phải dựa vào phương pháp tổng hợp gồm các chuyên ngành sinh thái học (ecology), kinh tế và dân tộc học (ethnology). Một quyết định quản lý hoàn toàn dựa trên sự phân tích kinh tế hoặc tài chính sẽ làm tổn thương sự quan tâm của những người dân sống ở rừng. Một sự tiếp cận khôn ngoan đối với sự quản lý SPRNG là cần có sự tham gia của người dân địa phương (PRA)*.
Phải có thái độ dứt khoát khuynh hướng thiên về yêu cầu gỗ đối với rừng, từ bỏ thị trường có liên quan rất khác nhau tức là những nhà công nghiệp, thủ công nghiệp, các nhà môi trường, chính quyền cộng đồng địa phương, thương gia gỗ không chỉ là lợi ích kinh tế mà phải có trách nhiệm đến các vấn đề sinh thái học, công nghiệp, xã hội và cả lĩnh vực dân tộc học.
Những điểm khác liên quan đến hợp thành việc sản xuất bền vững SPRNG với mục đích khác của quản lý rừng là:
- SPRNG rất đa dạng và thông thường không chỉ thu hái được từ những khu rừng như nhau, mà còn thu hái được cùng một thời gian như nhau trong năm.
- Một số SPRNG đã bị giảm sút, hoặc bị triệt tiêu khả năng sản xuất do việc quản lý tồi, hoặc vì nó đã bị khai thác quá mức.
- Kỹ thuật lâm sinh, thực tiễn quản lý, phương pháp nhân giống của nhiều loài cây cho SPRNG không được chú ý đúng mức.
- Có những phương pháp khai thác SPRNG của người dân địa phương thật đáng ngại. Ví dụ, việc chặt, hạ cây Chiêu liêu (Termi arjuna) bóc vỏ lấy Tanin, thuốc nhuộm; chặt cây Trầm hương (Aquilaria carassa) để lấy trầm, đã làm cho chúng gần như bị tuyệt diệt trong rừng tự nhiên.
- Có nhiều loài cây, người khai thác sử dụng đã không hiểu biết hoặc đánh giá không đúng mức giá trị quý giá của nó.
- Có một số SPRNG đã từng là nguồn sống chính của một số cộng đồng, nhưng hiện nay do có sự khám phá ra vật phẩm ngoài sinh học (non – biological) thay thế, nên chúng không còn thị trường. Cánh kiến đỏ là một thí dụ. Một vài thập kỷ trước đây, cánh kiến đỏ (Shellac) có nhu cầu rất lớn để tạo ra các đĩa (hát) ghi âm, sơn cách nhiệt, vecni, chất kết dính, nhưng đến những năm cuối của thế kỷ trước Shellac đã không tìm được thị trường. Mới đây do phát hiện những đặc tính lý hóa ưu việt vô song; nên Shellac đã trở lại và rất có giá trị trên thị trường, góp phần tích cực nâng cao thu nhập vào ổn định cuộc sống của nhiều cộng đồng dân tộc.
Nguồn tài nguyên SPRNG
Rừng nước ta có nhiều loài cây và nhóm thực vật cho SPRNG có giá trị và rất phong phú.
- Cỏ:Cỏ đã được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau hơn là việc trồng cỏ để làm thức ăn cho chăn nuôi. Loại cỏ (Elaliopsis binata) ngoài việc dùng để làm giấy, lợp nhà, dây chão, thảm dệt còn dùng làm thức ăn rất tốt cho chăn nuôi.
- Tre, trúc:thường được dùng sản xuất giấy, chiếu, chão thừng, vật gia dụng, trồng để lấy măng thực phẩm. Quan trọng trong nhóm tre – trúc này có các loài: Rambasa, Dendrocalamus, Arundin, Melocana, Pllylostachys.
- Song, mây:gồm nhiều loại: Song lá bạc, song mật, song đá, song hồng; mấy nếp (Calmus tetradactyluc). Mây dẻo, mây hoa… được dùng để làm dây cáp, đan lát chiếu tre, giỏ đựng, bàn ghế mỹ nghệ.
- Sợi và tơ thô:Có nhiều loại cây cho năng suất sợi rất cao như: Sui (Antiaris), móng bò (Bauhinia), dứa núi (Padanus), các loài trong giống Thùa (Agave).
- Dầu và tinh dầu:Chẳng hạn như cỏ dầu, gỗ dầu, lá dầu (leaf oil), rễ dầu, hoa dầu (flower oil).
- Những loại hạt cho dầu: cây lai(Aleurites), cây chóc mọn (Mallotus), sầu đâu.
- Thuốc nhuộm, thuộc da:thông nhựa, xa kê, chay, nhun sợi, nhung hoa, sến.
- Dược liệu:Có rất nhiều loại cây trong rừng tự nhiên: lá, rễ, vỏ, hoa, quả, nhựa… là những dược liệu quý, chẳng hạn như: hoàng mộc (Berberis), ô dầu (Aconitum), gai dầu, lát khét.
- Thực phẩm:Nhiều loài cây rừng tự nhiên được sử dụng làm rau xanh, thực phẩm: cây lá xi rô (Carissa), xa kê (Artocarpus), hồ đào, dứa sợi.
Vài vấn đề cấp bách
Cần sớm điều tra khảo sát phân tích tổng hợp thực trạng từ đó kiến giải những vấn đề về quản lý sử dụng SPRNG sao cho có hiệu quả bền vững, phát triển. Trong các chương trình dự án phát triển liên quan đến rừng, đất rừng, vấn đề SPRNG phải được xem là một trong các nội dung quan trọng. Các tiêu chuẩn về SPRNG, hoặc đa dạng sinh học phải tương xứng với các tiêu chuẩn khác. Sự đa dạng sinh học cần được xem xét so sánh cân đối giữa các loài phong phú, khan hiếm, dễ bị tiêu diệt. Hệ thống kỹ thuật lâm sinh truyền thống (Systems Silvicultural Classical) được thiết lập nhằm phát triển, nuôi dưỡng và sự sản xuất gỗ của các lâm phần – kỹ thuật lâm sinh đồng nghĩa với việc sản xuất gỗ. Điều này rất đúng với thực trạng hiện nay. Hệ thống kỹ thuật lâm sinh truyền thống dựa vào sinh thái học quần thể (polulation ecology) và việc chăm sóc một hoặc hai loài cây đứng đã được chọn lựa. Với sự tác động của giải pháp công nghệ đó đã làm thương tổn tới sự sản xuất bền vững của SPRNG.
Có hai vấn đề chính về vấn đề SPRNG. Thứ nhất có thể quản lý rừng và sản xuất gỗ và đồng thời sử dụng và phát triển nguồn lợi SPRNG. Thứ hai, có thể có một hệ kỹ thuật lâm sinh thích ứng đó là phương pháp sinh thái (Ecologically) hợp lý, sản xuất bền vững gỗ và SPRNG? Đúng, có quá ít các công trình nghiên cứu để trả lời câu hỏi này. Nhưng kinh nghiệm thực tế đã cho câu trả lời khẳng định hai câu hỏi đó. Phương pháp tái sinh chồi - nuôi dưỡng rừng (Coppiee - with Recerve System) đã được áp dụng có thể phù hợp cả hai cho việc sản xuất gỗ và SPRNG. Tất nhiên cũng còn nhiều phương pháp khác.
Công cụ quản lý kỹ thuật - SPRNG
Hệ lâm sinh là phương pháp đầu tiên trong tiến trình quản lý rừng tự nhiên là sự đảm bảo hợp lý đầu vào, để đạt được đầu ra mong muốn. Lâm sinh tự nó không thể nhận biết được đầu vào hợp lý. Nó cần có sự quản lý của các công cụ quản lý kỹ thuật để làm điều đó. Công cụ quản lý có thể đòi hỏi một hệ thống lâm sinh hợp lý cho việc sản xuất SPRNG hợp lý như: Sự tham gia của người dân (PRA), đóng góp kiến thức (PK), phối hợp với kinh nghiệm địa phương (IK), và tri thức khoa học (SK), điều này có thể lập được một phương trình: PK = IK + SK.
Việc phát triển hệ thống lâm sinh và các mô hình quản lý SPRNG đòi hỏi nhiều loài, nhiều tầng sản phẩm, tương xứng với sản lượng mong muốn, trong điều kiện sinh thái và kinh tế xã hội khác nhau. Cần phải tăng cường kiên trì nghiên cứu trong một thời gian dài. Trong thực tế hiện nay, nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến việc quản lý SPRNG cần nên sớm tổ chức. Kinh nghiệm địa phương sinh vật học dân tộc (ethnobiology) góp phần quan trọng vào các phương pháp quản lý phù hợp, có hiệu quả đối với SPRNG. Đổi mới phương pháp canh tác lâm sinh đối với sản xuất SPRNG.
Trong khi phát triển hệ canh tác lâm sinh đối với việc sản xuất SPRNG, không được bỏ qua những nhu cầu thiết yếu của người nghèo nông thôn, là điều kiện tiên quyết để có được sự bền vững của nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chú trọng việc nuôi dưỡng, gây trồng các cây thuốc tại chỗ và các SPRNG khác dựa vào kinh nghiệm người dân địa phương. Đồng thời phải trên cơ sở khoa học, tiến hành những thí nghiệm để có căn cứ so sánh đánh giá, ứng dụng phát triển.








