Rừng tràm Melaleuca trên đất bán ngập lòng hồ thủy điện Thác Mơ lời giải bài toán giữa kinh tế gắn với bảo vệ môi trường
Sang tháng1 năm sau nước giảm dần và hồ có nước thấp nhất vào cuối tháng 6 Dương lịch. Sau mỗi trận mưa lớn nước hồ lại tiếp tục dâng lên. Với lượng hàng năm ở đây khá cao (2698 mm) có những tháng lượng mưa đạt tới 400 - 600 mm. Hiện tượng xói mòn, rửa trôi trên lưu vực xảy ra rất dữ dội, tất cả sẽ đổ dồn xuống các nhánh suối và đi vào lòng hồ. Dải đất ven hồ bán ngập có chiều dài hàng trăm km, cùng với một số đảo nổi trên hồ, với mực ngập nước 3,5 - 4m thích hợp để trồng cây Tràm.
Cây tràm Melaleuca… thuộc họ sim (Myrtaceae) là loại cây thân gỗ nhỡ, có chiều cao trung bình khoảng 12 - 15 m và đường kính ngang ngực 20 - 25 cm khi đạt trạng thái trưởng thành.
Với diện tích rừng trồng là 40 ha được trồng từ 1/6 - 30/6/2003. Với hai giống tràm là M cajuputi, và tràm leucadendra. Hai loài tràm trên đều tỏ ra sinh trưởng và phát triển tốt, phù hợp với vùng bán ngập lòng hồ thủy điện Thác Mơ. Sự thành công của mô hình đã mang lại một số hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường cụ thể như sau:
Hiệu quả về kinh tế - xã hội
Cây tràm ở hồ thủy điện Thác Mơ có sinh trưởng trung bình trong hai năm đầu với lợi thế về dinh dưỡng của đất nền bazan, lợi thế về hoàn cảnh sống trong mùa khô có nước ngập, khi nước hồ rút xuống sâu thì lại được hưởng nguồn nước mưa nên sinh trưởng cây tràm từ năm thứ 3 trở đi có nhiều thuận lợi, tăng trưởng bình quân gỗ đạt 25 m3/ha. Đây là nguyên liệu cho ván dăm, gỗ xẻ ghép thanh, các cây chống phục vụ xây dựng, gỗ cho công trình lán trại…
Lá Tràm có hàm lượng tinh dầu khoảng 4 - 5%; có thể thu hái lá phục vụ cho việc cất tinh dầu phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Trồng rừng Tràm ở ven các hồ cũng hỗ trợ cho việc phát triển thủy sản trong các hồ chứa nước, cây Tràm thân thiện hơn với các loài cá.
Hiệu quả về môi trường
Trồng rừng nhằm thu giữ khí CO2, sử dụng các loại gỗ từ trồng rừng Tràm một cách hợp lí thì lượng các bon trong gỗ được lưu giữ tạm thời một cách lâu dài.
Quá trình tính toán thực tế: Cứ trồng được 1 ha rừng Tràm trên các vùng bán ngập ở các hồ thủy điện, thủy lợi thì một năm đã lưu giữ được 36,66 tấn khí CO2, khí chủ yếu gây hiệu ứng nhà kính. Với diện tích hàng chục ngàn ha đất bán ngập ở các tỉnh Đông Nam bộ để hoang hóa có thể trồng rừng Tràm thì con số này thật sự có ý nghĩa.
Hiệu quả về bảo vệ môi trường và giữ bền vững cho các hồ thủy điện, thủy lợi
Bờ của hồ chứa nước thường là phía cuối của dòng chảy từ phía trên đổ xuống, diện tích lưu vực bao gồm trên 50% là rừng, còn lại là diện tích các vườn rẫy, canh tác cây nông nghiệp. Đai rừng Tràm ở ven hồ sẽ có tác dụng cản bớt dòng nước từ phía trên đổ xuống làm hạn chế bào mòn, xói lở bờ hồ. Nếu tính bình quân mỗi năm dải đất ven hồ giảm đi sự bào mòn xói lở là 2cm đất thì chúng ta có thể hạn chế được lượng đất bị xói lở lắng lòng hồ là 200 m3 đất/ ha. Ở lòng hồ thủy điện Thác Mơ với diện tích đất ven hồ có thể trồng rừng tràm là 2000 ha, nếu diện tích này có rừng Tràm bảo vệ thì hàng năm có thể giảm thiểu được: 200 m2 x 2000 h x 1,4 tấn = 560.000 tấn đất; gây bồi lắng lòng hồ, góp phần giúp cho sự bền vững sử dụng chứa nước của lòng hồ.
Kiến nghị
Rừng Tràm ở tuổi thứ 10 có thể khai thác thu hồi sản phẩm luân kỳ đầu, sau đó tái sinh chồi sẽ tái tạo lại rừng mới, khi khai thác cần tìm các giải pháp kéo toàn bộ cành ngọn lên giải đất phía trên để không gây ảnh hưởng xấu tới môi trường nước hồ. Lượng cành ngọn này cần nghiên cứu sử dụng các chế phẩm vi sinh để làm phân bón hữu cơ phục vụ cây trồng.
Hiện nay tỉnh Bình Phước có trên 30 hồ thủy lợi, từ thành công của rừng Tràm trên vùng đất bán ngập, cần sớm ứng dụng vào việc tạo ra đai rừng ở các vùng bán ngập thuộc các hồ thủy lợi để hạn chế xói lở, hạn chế bồi lắng lòng hồ, đảm bảo nguồn nước tưới cho nông nghiệp.








