Rơm rạ và phế thải nông nghiệp - Hiểm họa và tài nguyên
Theo số liệu báo cáo của Bộ NN&PTNT và nghiên cứu của một số chuyên gia nông nghiệp và môi trường, tổng lượng rác ở nông thôn nước ta hàng năm ước tính 83,76 triệu tấn (2006), trong đó rác thải sinh hoạt là 9,94 triệu tấn, khoảng 0,34Kg/người/ngày, Chất thải rắn do chăn nuôi tạo ra khoảng 75 triệu tấn, chất thải làng nghề 0,69 triệu tấn, phế thải từ nuôi cá da trơn ở Nam Bộ từ 2,5-4 triệu tấn, từ nuôi tôm cứ 100 ha thải ra 900 tấn thải rắn, từ phân bón cho trồng trọt 4 triệu tấn, từ bao bì thuốc BVTV 9000 tấn… hàng năm. Đáng chú ý là có tới 61% là rác hữu cơ có thể tái chế được.
Hàng năm có khoảng 50 triệu tấn rơm khô, 8 triệu tấn trấu, 30 - 50 triệu phế phải thực vật, 75 triệu tấn chất thải rắn chăn nuôi, tổng cộng khoảng 150 đến 200 triệu tấn rơm, phế thải nông nghiệp ở nước ta có thể gây hiểm họa ô nhiễm môi trường khôn lường nhưng cũng có thể là nguồn tài nguyên, nguyên liệu khổng lồ và quý giá để tạo ra các sản phẩm phục vụ sản xuất và đời sống. Đáng chú ý là khối Biomas này ngày càng tăng, ước tính 15-20% năm.
* Rác, phế thải nông nghiệp - hiểm họa khôn lường
Trên thế giới cũng như ở nước ta, phế thải nông nghiệp nếu không được xử lý, tái chế sẽ là hiểm họa lớn. Thứ nhấtnó sẽ làm ô nhiễm nặng nề môi trường sản xuất và môi trường sống, tạo sự mất an toàn, độc hại đối với con người, lương thực thực phẩm, ô nhiễm đất đai, bầu không khí và góp phần không nhỏ biến đổi khí hậu toàn cầu. Thứ hainó sẽ gây nên những dịch bệnh lớn và dai dẳng sẵn sàng bùng phát ở người, gia súc, thủy sản, cây trồng… mà chúng ta thường thấy. Thứ banó làm ô nhiễm cảnh quan, thiên nhiên, đặc biệt ở các khu du lịch và đô thị. Thứ tưnó là thách thức lớn đến sự phát triển bền vững của thiên nhiên, đời sống, sản xuất và xã hội. Thứ nămnó cũng có thể gây nên những xung đột nội địa cũng như toàn cầu. Thực tế trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt nông thôn ở nước ta hiện nay xác định điều đó. Tác hại gây ô nhiễm nặng nề và phổ biến ở các vùng, cơ sở chăn nuôi tập trung, ở các làng nghề. Ô nhiễm sống, nguồn nước và cảnh quan ở làng, xóm, khu dân cư nông thôn. Hiện tượng ngày càng gia tăng của nạn đốt rơm, thả trấu trôi sông. Sự bất lực trong xử lý rác và ô nhiễm rác ở đô thị cũng như nông thôn, nhiều khi dẫn đến xung đột xã hội. Riêng nạn đốt rơm rạ vừa gây ô nhiễm, vừa lãng phí, vừa tác hại xấu đến sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy mỗi ha lúa sau thu hoạch để lại rơm rạ chứa 180 - 200 Kg N-P-K nguyên chất tương đương giá trị 5 - 6 triệu đồng. Nếu chỉ tính 4 triệu ha lúa vùng sản xuất trọng điểm thì đó đã là một giá trị khổng lồ, khoảng 20 ngàn tỷ đồng. Việc đốt rơm rạ do nông dân kém hiểu biết cho rằng để có tro bón ruộng, song thực tế khi đốt rơm rạ sẽ xảy ra sự nhiệt phân không hoàn toàn sẽ tạo các khí độc CO, CO 2, SO 2… rất nguy hại cho sức khỏe. Khói còn có tính cay, tổn hại cho họng, mắt, thở… Khi đốt rơm rạ do các phản ứng hóa học, tro còn lại chỉ chứa chút ít P, K, Ca… rất ít giá trị dinh dưỡng cho cây trồng mà là một sự lãng phí lớn.
* Rơm rạ và phế thải nông nghiệp - Nguồn tài nguyên lớn
Thực tế nghiên cứu, sản xuất ở Việt Nam cũng như nước ngoài cho thấy đã có nhiêu công nghệ, phương pháp hiệu quả, khả thi xử lý, sản xuất các sản phẩm phục vụ đời sống và sản xuất từ rơm rạ và phế thải nông nghiệp như trồng nấm, chế biến phân bón vi sinh sạch, làm vật liệu xây dựng, sản xuất viên năng lượng sinh học…
Theo chúng tôi khả năng lớn nhất,khả thi nhất đối với chúng ta hiện nay là sử dụng rơm để trồng nấm ăn và nấm dược liệu,một nghề đang được phát triển mạnh hiện nay ở cả phía Nam lẫn phía Bắc. Nếu chúng ta chỉ sử dụng 40% rơm rạ tức khoảng 20 triệu tấn để trồng các loại nấm quanh năm sẽ có 1 sản lượng nấm lớn khoảng 5 triệu tấn nấm tươi cho tiêu dùng và xuất khẩu trị gia khoảng 60 - 70 ngàn tỷ đồng tương đương 3000 triệu USD, vừa có nguồn thu cho nông dân, ngoại tệ cho đất nước, vừa có sản phẩm sạch, dinh dưỡng cao cho xã hội, lại bảo vệ được môi trường.
Một nguồn lợi rất lớn khác,đó là sử dụng rơm rạ, phân gia súc, cám, và một lượng nhất định chế phẩm vi sinh hữu hiệu mà hiện nay chúng ta đã có thể chế tạo được để sản xuất phân vi sinh sạch bón cho cây trồng,đáp ứng chế độ canh tác “thực hành nông nghiệp tốt - GAP” đang được phát triển ở thế giới cũng như ở nước ta. Theo tính toán khi sử dụng công nghệ EM của tổ chức EMRO - Nhật Bản, để sản xuất 1 tấn phân bón vi sinh sạch - Bogashi cần sử dụng 1 tấn rơm rạ và phế thải thực vật, 0,5 tấn phân gia súc khô, 0,1 tấn cám và 1 lượng chế phẩm vi sinh EM, giá trị 1 tấn phân này bằng 3 tấn phân chuồng hoai, cung cấp tốt dinh dưỡng cho cây trồng đồng thời phòng ngừa được nhiều bệnh hại cây xuất phát từ đất, có thể giảm được 20 - 30% phân bón hóa học. Nếu chúng ta sử dụng 20 triệu tấn rơm rạ (40%) và 30 triệu tấn phế thải thực vật, 30 - 40 triệu tấn phân gia súc (40%) và 10 triệu tấm cám cùng 1 lượng đủ chế phẩm vi sinh hữu hiệu (Như EM…) sẽ có khoảng 50 - 60 triệu tấn phân bón vi sinh sạch với giá trị khoảng 100 ngàn tỷ đồng.
Một gia đình nông dân có khoảng 1 mẫu ruộng trồng lúa (0,3 ha), nuôi trong năm 2 đầu lợn sẽ có đủ rơm, phân chuồng, cám để sản xuất tại gia khoảng 10 tấn phân vi sinh đủ bón cho diện tích lúa, màu, tăng thu nhập hoặc sản xuất được 1 - 2 tấn nấm tươi khi được cung cấp chế phẩm EM và giống nấm và chuyển giao công nghệ dễ thực hiện.
Những năm gần đây ở nước Đức đang phát triển công nghệ sản xuất viên năng lượng sinh học pellet từ phế thải nông nghiệp.Theo kết quả nghiên cứu, nhiệt trị của phế thải nông nghiệp như rơm, trấu… là 3600-3800 kcal tương đương của 0,8kg than nâu hoặc 4kWh điện… Từ 10M 3rơm rạ, trấu sẽ thu được khoảng 1 tấn pellet. Viên pellet dùng để sưởi ấm thay gas hay dầu, sản xuất ra điện năng và nhiệt năng thay thế 1 phần than, dầu… trong các nhà máy nhiệt điện, sử dụng cho các bếp không khói thay bếp gas mà giảm 50% chi phí. Nhu cầu về pellet của Đức và EU rất lớn, hàng trăm triệu tấn mỗi năm.
Các thiết bị sản xuất pellet có công suất từ 50kg/giờ đến 20 tấn/giờ sẽ phù hợp với Việt Nam. Nếu chúng ta nhập các giây chuyền thiết bị sản xuất pellet, hàng năm sử dụng 20 triệu tấn rơm rạ, trấu sẽ có 20 triệu tấn pellet cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Chỉ có mấy công nghệ nêu trên đã có thể sử dụng rơm rạ và phế thải nông nghiệp để sản xuất ra các sản phẩm và vật liệu quý phục vụ sản xuất và đời sống, nâng cao thu nhập cho nông dân, đồng thời biến rơm rạ, phế thải nông nghiệp từ hiểm họa cho môi trường và cuộc sống thành tài nguyên quý giá phục vụ sản xuất và đời sống. Vấn đề còn lại là chính sách, công nghệ và tổ chức thực hiện.








