Quy hoạch phát triển công nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Công nghiệp hóa là mục tiêu của hầu hết mọi địa phương trong cả nước. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long, nơi được mệnh danh là vựa lúa với khả năng cung cấp 90% sản lượng lúa xuất khẩu của cả nước, thì nhiệm vụ công nghiệp hóa là bài toán song hành để giữ vững thế mạnh nông nghiệp đang có. Muốn vậy, công tác nghiên cứu quy hoạch phát triển các khu công nghiệp hợp lý là cần thiết.
Đồng bằng sông cửu Long hiện có 74 khu công nghiệp, với tổng diện tích khoảng 24.000ha và 214 cụm công nghiệp, với diện tích 18.658ha, trong đó, chỉ có 39.7% diện tích các khu công nghiệp và 27.47% cụm công nghiệp là được lấp đầy, còn lại đều bỏ hoang. Điều đáng nói là phần lớn những khu công nghiệp bỏ hoang này từng là những thửa ruộng màu mỡ. Khu công nghiệp không thu hút được nhà đầu tư, phương tiện sản xuất không còn, người nông dân thất nghiệp ngay trên vùng vựa lúa. Thực trạng đó là hậu quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có vai trò của công tác quy hoạch.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng hạ du sông Mekong và có thể được coi như là bán đảo với 3 mặt giáp biển, hầu hết diện tích là đất phù sa châu thổ, trũng thấp, ngập nước ngọt và ngập nước mặn (vùng ven biển), chịu ảnh hưởng chế độ lũ mùa của sông và thủy triều của biển.
Đặc điểm đó là thách thức lớn nhất cho việc xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông các hệ thống hạ tầng khác và cơ sở vật chất cho sự phát triển công nghiệp.
Vì vậy, nghiên cứu quy hoạch xây dựng công nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long đòi hòi phải có cái nhìn bao quát, kết hợp nhiều yếu tố về tự nhiên, xã hội, đánh giá thế mạnh và điểm yếu của vùng, để xây dựng phương án phù hợp với mục tiêu ngắn hạn và bền vững trong dài hạn.
Đồng bằng sông Cửu Long có 13 tỉnh, thành phố, mỗi địa phương đều có mục tiêu và cách làm riêng để phát triển CN, dẫn đến sự rời rạc và thiếu sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Đây là sự lãng phí lớn, vì xét trên tổng thể, có thể coi đây là khu vực có tính đồng nhất tự nhiên cao nhất cả nước, nhưng lại chưa tận dụng được lợi thế này. Quy hoạch phát triển công nghiệp cho toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở phân tích và phân chia thành các tiểu vùng có những lợi thế cạnh tranh cụ thể, là việc cần thiết, chứ không nên giới hạn theo ranh giới hành chính như cách làm hiện tại.
Hoạt động sản xuất công nghiệp có thể sơ đồ hóa thành ba vùng là vùng nguyên liệu, vùng sản xuất, vùng thị trường. Nguồn lực để phát triển ngành công nghiệp bao gồm nhân lực và hệ thống hạ tầng tương ứng.
Trong ba vùng yếu tố đẻe phát triển hoạt động sản xuất công nghiệp như đã phân tích, các cơ sở công nghiệp (điển hình là các khu công nghiệp tập trung) chính là vùng sản xuất. Tình trạng hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long, có thể xem như là vùng sản xuất bị đặt sai vị trí, dẫn đến các tình huống bất lợi như: thiếu nguyên liệu sản xuất, thiếu nhân lực, hạ tầng cơ sở không đáp ứng nhu cầu vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm. Hậu quả tất yếu là khu công nghiệp bị bỏ hoang.
Để góp phần định hướng CNH đúng, khai thác hết tiềm năng của đồng bằng sông Cửu Long, công tác quy hoạch phát triển công nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long được đề xuất theo trình tự sau:
1. Phân tích đồng bằng sông cửu Long thành các tiểu vùng có cùng lợi thế về một số loại nguyên liệu (hoặc lợi thế về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng), để từ đó đề xuất quy hoạch ngành công nghiệp mũi nhọn của từng tiểu vùng.
2. Nghiên cứu phương án xây dựng nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng phù hợp với ngành công nghiệp mũi nhọn đã xác định.
3. Chồng lớp quy hoạch công nghiệp với các quy hoạch khác, như hệ thống thủy lợi, hệ thống giao thông, mạng lưới đô thị và vùng kinh tế trọng điểm của ĐBSCL (Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau) để khai thác hữu hiệu các tài nguyên đó cho mục tiêu phát triển công nghiệp vùng.
Phân tích vùng nguyên liệu
Đồng bằng sông cửu Long, đặc biệt có ưu thế vượt trội về nông sản và dầu mỏ, đá vôi.
Nông sản:Năng lực sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long, là hơn 50% tổng sản lượng lương thực và đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước, thuỷ sản chiếm hơn 60% sản lượng và đóng góp khoảng 80% lượng xuất khẩu. Với điều kiện tự nhiên đó, đồng bằng sông Cửu Long, có vùng nguyên liệu nông sản thuận lợi để phát triển công nghiệp chế biến sau thu hoạch.
Khoáng sản:đồng bằng sông Cửu Long có tài nguyên khoáng sản đa dạng. Có triển vọng dầu khí trong thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và Vịnh Thái Lan gồm các bể trầm tích Cửu Long (khoảng 2 tỷ tấn dầu), Nam Côn Sơn (3 tỷ tấn dầu), Thổ Chu - Mã Lai (dự báo không lớn, khoảng vài trăm triệu tấn dầu). Đá vôi có trữ lượng khoảng 130 đến 440 triệu tấn. Đá Granit, Andesit có khoảng 450 triệu m 3. Sét gạch ngói có trữ lượng đến 40 triệu m 3. Cát sỏi có trữ lượng đến 10 triệu m 3/năm. Than bùn có lượng 370 triệu tấn, trong đó U Minh khoảng 300 triệu tấn. (Viện Chiến lược - Bộ Kế hoạch đầu tư).
Khai thác tiềm năng hiện có, phát triển công nghiệp chế biến sau thu hoạch và công nghiệp hóa dầu để làm cơ sở cho bước phát triển công nghiệp vùng ở trình độ cao hơn. Xem hai ngành công nghiệp này là cơ hội đào tạo nhân lực phù hợp với đời sống công nghiệp, tích lũy tài chính, hoàn thiện hệ thống hạ tầng để phát triển các ngành CN công nghệ cao và dịch vụ.
Phân tích mạng lưới đô thị và phân bố dân cư làm cơ sở phát triển công nghiệp
Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương, được coi là hạt nhân, cùng với các đô thị ngoại biên gồm Mỹ Tho, Rạch Giá, Long Xuyên, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Cà Mau sẽ là các trục phát triển trong vùng.
Ngày 14/12/2010 tại Cần Thơ, Bộ Xây dựng và Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức hội nghị chuẩn bị dự án nâng cấp đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo kế hoạch, năm 2012 sẽ nâng cấp 6 đô thị gồm Mỹ Tho, Cao Lãnh, Trà Vinh, Cần Thơ, Rạch Giá, Cà Mau. Từ đó cơ bản định hình được mạng lưới đô thị làm hạt nhân phát triển toàn vùng.
Kết quả nâng cấp 6 đô thị là sẽ đem đến lợi ích trực tiếp cho 142.000 dân, và gián tiếp cho 1,39 triệu dân với hệ thống hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, hạ tầng xã hội bao gồm nhà ở, việc làm và giáo dục, y tế được cải thiện. Trình độ phát triển của hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội là cơ sở cho việc quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ tiên tiến tại các đô thị được xác định trong dự án của Bộ Xây dựng và WB.
Dự báo các giai đoạn phát triển.
Căn cứ dự báo:
Nghị quyết Trung ương Đảng: năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Kế hoạch phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,7%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và 8,6%/năm giai đoạn 2016 - 2020.
- Năm 2015, tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp vùng đổng bằng sông Cửu Long, chiếm 36,7% GDP, công nghiệp và xây dựng chiếm 30,4%; dịch vụ chiếm 32,9%.
- Tỷ lệ đô thị hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long, đạt 28% năm 2015, 34,2% năm 2020.
- Năm 2020 giáo dục, đào tạo và dạy nghề ở đồng bằng sông Cửu Long, bằng và vượt các chỉ số phát triển của các ngành học, bậc học chung của cả nước.
Căn cứ kịch bản bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu: 45% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, bị ngập nước khi nước biển dâng.
Dự báo các giai đoạn phát triển
Giai đoạn 1: 2010 - 2015: hoàn thiện cơ sở hạ tầng, chuẩn bị nâng cấp trình độ phát triển công nghiệp có công nghệ tiên tiến. Tập trung quy hoạch ổn định vùng nguyên liệu, phát triển CN chế biến sau thu hoạch. Phát triển ngành CN VLXD phục vụ cho nhu cầu xây dựng phát triển của vùng.
Giai đoạn 2: 2015 - 2020: thu hẹp quy mô các ngành CN khai thác tài nguyên và xuất sản phẩm thô sơ, phát triển các ngành CN chế biến sau thu hoạch theo hướng áp dụng CN sinh học tiên tiến, tập trung phát triển các trung tâm đô thị làm cơ sở cho các trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học vào các sản phẩm hóa dầu, hóa khí.
Giai đoạn 3: sau 2020: hoàn thiện các hệ thống cơ sở hạ tầng gồm hệ thống kho bãi, kỹ thuật lưu trữ, trình độ quản lý,... để phát triển các dịch vụ vận tải hàng hải quốc tế, làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển các ngành CN có liên quan (kỹ thuật hàng hải, công nghiệp vận tải), phấn đấu trở thành trung tâm sản xuất và phân phối sản phẩm CN trong khu vực.
Với cái nhìn toàn cảnh như vậy, mục tiêu phát triển CN của các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, sẽ có tiếng nói chung, có sức mạnh tổng hợp và có lợi thế cạnh tranh riêng, giảm thiểu được những lãng phí như đã diễn ra.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm thu hẹp diện tích canh tác nông nghiệp và nhu cầu lương thực không ngừng tăng do dân số toàn cầu tăng (dự báo có 9 tỉ người vào năm 2050), thì quỹ đất nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long, càng trở nên quý giá. Công nghiệp hóa đồng bằng sông Cửu Long không thể là đánh đổi đất nông nghiệp thành những khu, cụm CN, mà phải là CNH ngành nông nghiệp, sản xuất phục vụ nhu cầu của ngành Nông nghiệp và đem lại giá trị gia tăng cho sản phẩm chế biến sau thu hoạch.
Các vấn đề về xác định vùng nguyên liệu, nguồn nhân lực và hạ tầng cơ sở đã được phân tích nêu trên, vấn đề còn lại là quy hoạch vùng sản xuất sao cho phù hợp với điều kiện của đồng bằng sông Cửu Long, hay nói một cách khác, mô hình nào là phù hợp với đồng bằng sông Cửu Long và xây dựng phương pháp để đánh giá tính khả Ihi của mô hình đó.








