Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 25/11/2011 20:21 (GMT+7)

Quy hoạch phát triển công nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Công nghiệp hóa là mục tiêu của hầu hết mọi địa phương trong cả nước. Đối với Đồng bằng sông Cửu Long, nơi được mệnh danh là vựa lúa với khả năng cung cấp 90% sản lượng lúa xuất khẩu của cả nước, thì nhiệm vụ công nghiệp hóa là bài toán song hành để giữ vững thế mạnh nông nghiệp đang có. Muốn vậy, công tác nghiên cứu quy hoạch phát triển các khu công nghiệp hợp lý là cần thiết.

Đồng bằng sông cửu Long hiện có 74 khu công nghiệp, với tổng diện tích khoảng 24.000ha và 214 cụm công nghiệp, với diện tích 18.658ha, trong đó, chỉ có 39.7% diện tích các khu công nghiệp và 27.47% cụm công nghiệp là được lấp đầy, còn lại đều bỏ hoang. Điều đáng nói là phần lớn những khu công nghiệp bỏ hoang này từng là những thửa ruộng màu mỡ. Khu công nghiệp không thu hút được nhà đầu tư, phương tiện sản xuất không còn, người nông dân thất nghiệp ngay trên vùng vựa lúa. Thực trạng đó là hậu quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có vai trò của công tác quy hoạch.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng hạ du sông Mekong và có thể được coi như là bán đảo với 3 mặt giáp biển, hầu hết diện tích là đất phù sa châu thổ, trũng thấp, ngập nước ngọt và ngập nước mặn (vùng ven biển), chịu ảnh hưởng chế độ lũ mùa của sông và thủy triều của biển.

Đặc điểm đó là thách thức lớn nhất cho việc xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông các hệ thống hạ tầng khác và cơ sở vật chất cho sự phát triển công nghiệp.

Vì vậy, nghiên cứu quy hoạch xây dựng công nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long đòi hòi phải có cái nhìn bao quát, kết hợp nhiều yếu tố về tự nhiên, xã hội, đánh giá thế mạnh và điểm yếu của vùng, để xây dựng phương án phù hợp với mục tiêu ngắn hạn và bền vững trong dài hạn.

Đồng bằng sông Cửu Long có 13 tỉnh, thành phố, mỗi địa phương đều có mục tiêu và cách làm riêng để phát triển CN, dẫn đến sự rời rạc và thiếu sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Đây là sự lãng phí lớn, vì xét trên tổng thể, có thể coi đây là khu vực có tính đồng nhất tự nhiên cao nhất cả nước, nhưng lại chưa tận dụng được lợi thế này. Quy hoạch phát triển công nghiệp cho toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở phân tích và phân chia thành các tiểu vùng có những lợi thế cạnh tranh cụ thể, là việc cần thiết, chứ không nên giới hạn theo ranh giới hành chính như cách làm hiện tại.

Hoạt động sản xuất công nghiệp có thể sơ đồ hóa thành ba vùng là vùng nguyên liệu, vùng sản xuất, vùng thị trường. Nguồn lực để phát triển ngành công nghiệp bao gồm nhân lực và hệ thống hạ tầng tương ứng.

Trong ba vùng yếu tố đẻe phát triển hoạt động sản xuất công nghiệp như đã phân tích, các cơ sở công nghiệp (điển hình là các khu công nghiệp tập trung) chính là vùng sản xuất. Tình trạng hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long, có thể xem như là vùng sản xuất bị đặt sai vị trí, dẫn đến các tình huống bất lợi như: thiếu nguyên liệu sản xuất, thiếu nhân lực, hạ tầng cơ sở không đáp ứng nhu cầu vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm. Hậu quả tất yếu là khu công nghiệp bị bỏ hoang.

Để góp phần định hướng CNH đúng, khai thác hết tiềm năng của đồng bằng sông Cửu Long, công tác quy hoạch phát triển công nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long được đề xuất theo trình tự sau:

1. Phân tích đồng bằng sông cửu Long thành các tiểu vùng có cùng lợi thế về một số loại nguyên liệu (hoặc lợi thế về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng), để từ đó đề xuất quy hoạch ngành công nghiệp mũi nhọn của từng tiểu vùng.

2. Nghiên cứu phương án xây dựng nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng phù hợp với ngành công nghiệp mũi nhọn đã xác định.

3. Chồng lớp quy hoạch công nghiệp với các quy hoạch khác, như hệ thống thủy lợi, hệ thống giao thông, mạng lưới đô thị và vùng kinh tế trọng điểm của ĐBSCL (Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau) để khai thác hữu hiệu các tài nguyên đó cho mục tiêu phát triển công nghiệp vùng.

Phân tích vùng nguyên liệu

Đồng bằng sông cửu Long, đặc biệt có ưu thế vượt trội về nông sản và dầu mỏ, đá vôi.

Nông sản:Năng lực sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long, là hơn 50% tổng sản lượng lương thực và đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước, thuỷ sản chiếm hơn 60% sản lượng và đóng góp khoảng 80% lượng xuất khẩu. Với điều kiện tự nhiên đó, đồng bằng sông Cửu Long, có vùng nguyên liệu nông sản thuận lợi để phát triển công nghiệp chế biến sau thu hoạch.

Khoáng sản:đồng bằng sông Cửu Long có tài nguyên khoáng sản đa dạng. Có triển vọng dầu khí trong thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và Vịnh Thái Lan gồm các bể trầm tích Cửu Long (khoảng 2 tỷ tấn dầu), Nam Côn Sơn (3 tỷ tấn dầu), Thổ Chu - Mã Lai (dự báo không lớn, khoảng vài trăm triệu tấn dầu). Đá vôi có trữ lượng khoảng 130 đến 440 triệu tấn. Đá Granit, Andesit có khoảng 450 triệu m 3. Sét gạch ngói có trữ lượng đến 40 triệu m 3. Cát sỏi có trữ lượng đến 10 triệu m 3/năm. Than bùn có lượng 370 triệu tấn, trong đó U Minh khoảng 300 triệu tấn. (Viện Chiến lược - Bộ Kế hoạch đầu tư).

Khai thác tiềm năng hiện có, phát triển công nghiệp chế biến sau thu hoạch và công nghiệp hóa dầu để làm cơ sở cho bước phát triển công nghiệp vùng ở trình độ cao hơn. Xem hai ngành công nghiệp này là cơ hội đào tạo nhân lực phù hợp với đời sống công nghiệp, tích lũy tài chính, hoàn thiện hệ thống hạ tầng để phát triển các ngành CN công nghệ cao và dịch vụ.

Phân tích mạng lưới đô thị và phân bố dân cư làm cơ sở phát triển công nghiệp

Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương, được coi là hạt nhân, cùng với các đô thị ngoại biên gồm Mỹ Tho, Rạch Giá, Long Xuyên, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Cà Mau sẽ là các trục phát triển trong vùng.

Ngày 14/12/2010 tại Cần Thơ, Bộ Xây dựng và Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức hội nghị chuẩn bị dự án nâng cấp đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo kế hoạch, năm 2012 sẽ nâng cấp 6 đô thị gồm Mỹ Tho, Cao Lãnh, Trà Vinh, Cần Thơ, Rạch Giá, Cà Mau. Từ đó cơ bản định hình được mạng lưới đô thị làm hạt nhân phát triển toàn vùng.

Kết quả nâng cấp 6 đô thị là sẽ đem đến lợi ích trực tiếp cho 142.000 dân, và gián tiếp cho 1,39 triệu dân với hệ thống hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, hạ tầng xã hội bao gồm nhà ở, việc làm và giáo dục, y tế được cải thiện. Trình độ phát triển của hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội là cơ sở cho việc quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ tiên tiến tại các đô thị được xác định trong dự án của Bộ Xây dựng và WB.

Dự báo các giai đoạn phát triển.

Căn cứ dự báo:

Nghị quyết Trung ương Đảng: năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.

Kế hoạch phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,7%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và 8,6%/năm giai đoạn 2016 - 2020.

- Năm 2015, tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp vùng đổng bằng sông Cửu Long, chiếm 36,7% GDP, công nghiệp và xây dựng chiếm 30,4%; dịch vụ chiếm 32,9%.

- Tỷ lệ đô thị hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long, đạt 28% năm 2015, 34,2% năm 2020.

- Năm 2020 giáo dục, đào tạo và dạy nghề ở đồng bằng sông Cửu Long, bằng và vượt các chỉ số phát triển của các ngành học, bậc học chung của cả nước.

Căn cứ kịch bản bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu: 45% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, bị ngập nước khi nước biển dâng.

Dự báo các giai đoạn phát triển

Giai đoạn 1: 2010 - 2015: hoàn thiện cơ sở hạ tầng, chuẩn bị nâng cấp trình độ phát triển công nghiệp có công nghệ tiên tiến. Tập trung quy hoạch ổn định vùng nguyên liệu, phát triển CN chế biến sau thu hoạch. Phát triển ngành CN VLXD phục vụ cho nhu cầu xây dựng phát triển của vùng.

Giai đoạn 2: 2015 - 2020: thu hẹp quy mô các ngành CN khai thác tài nguyên và xuất sản phẩm thô sơ, phát triển các ngành CN chế biến sau thu hoạch theo hướng áp dụng CN sinh học tiên tiến, tập trung phát triển các trung tâm đô thị làm cơ sở cho các trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học vào các sản phẩm hóa dầu, hóa khí.

Giai đoạn 3: sau 2020: hoàn thiện các hệ thống cơ sở hạ tầng gồm hệ thống kho bãi, kỹ thuật lưu trữ, trình độ quản lý,... để phát triển các dịch vụ vận tải hàng hải quốc tế, làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển các ngành CN có liên quan (kỹ thuật hàng hải, công nghiệp vận tải), phấn đấu trở thành trung tâm sản xuất và phân phối sản phẩm CN trong khu vực.

Với cái nhìn toàn cảnh như vậy, mục tiêu phát triển CN của các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, sẽ có tiếng nói chung, có sức mạnh tổng hợp và có lợi thế cạnh tranh riêng, giảm thiểu được những lãng phí như đã diễn ra.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm thu hẹp diện tích canh tác nông nghiệp và nhu cầu lương thực không ngừng tăng do dân số toàn cầu tăng (dự báo có 9 tỉ người vào năm 2050), thì quỹ đất nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long, càng trở nên quý giá. Công nghiệp hóa đồng bằng sông Cửu Long không thể là đánh đổi đất nông nghiệp thành những khu, cụm CN, mà phải là CNH ngành nông nghiệp, sản xuất phục vụ nhu cầu của ngành Nông nghiệp và đem lại giá trị gia tăng cho sản phẩm chế biến sau thu hoạch.

Các vấn đề về xác định vùng nguyên liệu, nguồn nhân lực và hạ tầng cơ sở đã được phân tích nêu trên, vấn đề còn lại là quy hoạch vùng sản xuất sao cho phù hợp với điều kiện của đồng bằng sông Cửu Long, hay nói một cách khác, mô hình nào là phù hợp với đồng bằng sông Cửu Long và xây dựng phương pháp để đánh giá tính khả Ihi của mô hình đó.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.