Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước lưu vực sông trước tác động của biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu tác động đến nguồn nước ở các lưu vực sông
Theo dự báo của Viện Khoa học KTTV và Môi trường, đến năm 2100, mực nước biển sẽ dâng lên tới 1m, nhiệt độ tăng khoảng 3 0C. Theo tính toán, sẽ có khoảng 40 nghìn km 2đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập hàng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bị ngập hầu như hoàn toàn. Lưu vực sông Hồng-Thái Bình và lưu vực sông Đồng Nai là hai khu kinh tế trọng điểm của cả nước cũng có nguy cơ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của nước biển dâng.
Dưới tác động của BĐKH, dự báo vào năm 2050, diện tích đất bị xâm nhập mặn ở ĐBSCL là 2.500.000ha, gần 4/5 diện tích trên bán đảo Cà Mau bị xâm nhập mặn; toàn bộ các diện tích của dự án Gà Công, Bảo Định, Bắc Bến Tre, Mỏ Cày, Nam Măng Thít, Tiếp Nhất… diện tích đất bị ngập, kéo theo nguồn nước mặt, nước ngầm sẽ bị xâm nhập mặn nghiêm trọng. Dự báo, nếu xảy ra lũ lớn vào những năm giữa thế kỷ 21, gần 90% diện tích tự nhiên vùng này sẽ bị ngập lụt. Ngoài các thành phố, thị xã đã bị ngập lũ hiện nay như Châu Đốc, Long Xuyên, Cao Lãnh, sẽ có thêm Sa Đéc, Vĩnh Long, Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vị Thanh, Sóc Trăng, Rạch Giá và Hà Tiên. Trên lưu vực sông Hồng-Thái Bình, nhiệt độ, lượng mưa mùa lũ có xu hướng tăng lên, điều này có thể dẫn đến những thay đổi bất thường trong dòng chảy lũ, ảnh hưởng tới tài nguyên nước. Đến năm 2100, tại vùng đồng bằng sông Hồng-Thái Bình, mặn sẽ thâm nhập sâu thêm vào đất liền từ 3-9km. Lũ thượng nguồn tăng, lưu lượng đỉnh lũ tăng từ 8-10% vào năm 2050 và có thể lên đến 11-25% vào năm 2100. Quy mô lũ ở vùng này có khả năng lớn hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn hệ thống hồ chứa nước thượng nguồn và gần 2700 km hệ thống đê bảo vệ cho toàn đồng bằng.
Lưu vực sông Sài Gòn-Đồng Nai, khu vực hạ lưu của lưu vực sông bao gồm các tiểu lưu vực là Gò Dầu Hạ, Bến Lức, Nhà Bè, Đồng Nai, Sài Gòn, Hạ Dầu Tiếng và Tây Ninh rất dễ bị tổn thương trước những biến đổi bất lợi của BĐKH. Tình trạng nước biển dâng ở khu vực hạ lưu sông Sài Gòn-Đồng Nai, đặc biệt là khu vực TP. Hồ Chí Minh gây nên những khó khăn lớn cho cho sinh hoạt, kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế-xã hội. Nhiều vùng trong thành phố bị ngập vào những ngày triều cường. Khu vực hạ lưu của lưu vực sông, nằm dưới các bậc thang thủy điện phía thượng nguồn, địa hình tương đối thấp so với mực nước biển nên dễ bị tổn thương. Theo Viện Khoa học KTTV và Môi trường, lưu vực sông Đồng Nai, dòng chảy giảm cùng với tác động của nước biển dâng, đến cuối thế kỷ 21, mặn lấn sâu thêm 10 km, khoảng 300.000ha ở hạ lưu bị ảnh hưởng ngập lụt do lũ thượng nguồn.
Do chịu sức ép của việc khai thác, sử dụng nước khá cao, hệ thống thủy điện vừa và nhỏ lại phân bố dày đặc, trong tương lai, lưu vực sông Thu Bồn, sông Ba sẽ diễn ra những tranh chấp gay gắt về nước. Bên cạnh đó, lũ sẽ lớn hơn dẫn đến diện tích ngập lụt gia tăng từ 4% năm 2050 đến 9% năm 2100. Trong mùa cạn, hạ lưu thiếu nước, xâm nhập mặn sẽ đe dọa trực tiếp vùng đồng bằng với độ xâm nhập khoảng 3 km trên sông Ba và có thể lên tới 8 km tại một số nhánh sông thuộc hệ thống sông Thu Bồn trong năm 2100.
Tuy là con sông chịu tác động ít hơn, nhưng sông Cả là lưu vực có mức tăng nhiệt độ cao nhất, dòng chảy năm trên nhánh sông La giảm, nhất là vào mùa cạn giảm đến 10% vào năm 2100. Vào cuối thế kỷ 21, đỉnh lũ tại khu vực này dự báo sẽ tăng khoảng 4-15% và sẽ tác động đến hệ thống công trình bảo vệ cho đồng bằng. Những dòng chính trên sông Cả sẽ bị mặn xâm nhập vào sâu thêm từ 4-5 km.
TS. Trần Hồng Thái, Phó Viện trưởng Viện Khoa học KTTV và Môi trường cho biết, xâm nhập mặn xảy ra ở các vùng đất cửa sông, mạch nước ngầm tiếp giáp với biển. Nguyên nhân chính tạo nên sự xâm nhập mặn là khi có sự khác biệt về năng lượng dòng chảy (cả thế năng và động năng) cũng như khối lượng riêng giữa dòng nước ngọt và nước mặn. Nhiều yếu tố tác động đến hiện tượng xâm nhập mặn như: Lưu lượng và thời đoạn dòng chảy trên sông, địa hình, địa mạo, độ dốc đáy dòng chảy trên sông, cường độ thủy triều ở biển, tốc độ và hướng của gió, nhiệt độ của nước…
Một số giải pháp quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước
BĐKH đã gây ra những thay đổi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên nước trên các lưu vực sông. Các địa phương cần tăng cường, đổi mới phương thức quản lý, khai thác. Các thách thức về nước không thuần túy là vấn đề thiếu nước, khan hiếm nước hay ô nhiễm nguồn nước mà cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ như: Nhận thức, năng lực, công nghệ, quản lý, thể chế và chính sách. Người dân và chính quyền địa phương ở các lưu vực sông cần chung tay để có ngay những biện pháp thích ứng, tăng cường hợp tác với các nước bạn trong việc quản lý tài nguyên nước. Theo TS. Hoàng Minh Tuyển, Viện Khoa học KTTV và Môi trường, đối với sông Hồng, sông Thái Bình cần tiếp tục phát triển các hồ chứa đa mục tiêu. Việc khôi phục rừng phải đi đôi với việc thực hiện tiết kiệm nước trong các ngành, đặc biệt là nông nghiệp. Sông Cả cần thiết lập quy trình vận hành liên hồ chứa. Trên lưu vực sông Thu Bồn nâng cấp, xây dựng các nhà máy cấp nước sinh hoạt, công nghiệp ở đô thị, đồng thời, tiến hành xây dựng các nhà tránh lũ cho dân trong các khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn, bảo vệ đất, chống xói mòn, duy trì dòng chảy môi trường sau các công trình khai thác nước cũng là những việc cần làm ngay với lưu vực sông Ba. Tại lưu vực sông Đồng Nai, cần xây dựng một cơ chế chia sẻ nguồn nước. Việc xây dựng các tuyến đê và cống ngăn mặn cần kết hợp với việc chống ô nhiễm nguồn nước từ các nguồn thải công nghiệp và sinh hoạt. Riêng đối với ĐBSCL, hoàn thiện và củng cố những công trình thủy lợi trong quy hoạch lũ, có xét đến tác động của BĐKH, đồng thời sử dụng các biện pháp tích trữ nước ngọt, cũng như tăng cường xây dựng các cống ngăn mặn…
Tình trạng bão, lũ lụt, sóng lớn, hạn hán, triều cường làm gia tăng xâm nhập mặn sẽ còn ảnh hưởng nghiêm trọng hơn lên các lưu vực sông gây ô nhiễm, nhiễm mặn nguồn nước, đất. Các bộ, ngành, chính quyền địa phương hướng dẫn cụ thể cho các cấp, ngành liên quan chủ động xây dựng chương trình phù hợp; thiết lập cơ quan liên tỉnh để phối hợp xây dựng chương trình ứng phó và hành động có hiệu quả không chỉ ở cấp địa phương mà trong toàn vùng… Bên cạnh trách nhiệm và hành động của các nhà quản lý, nhà khoa học, mỗi người dân ở địa phương cũng cần có ý thức và hành động thiết thực để góp phần giảm nhẹ các tác động của BĐKH đối với tài nguyên nước ở lưu vực sông, bảo vệ, sử dụng hiệu quả nguồn nước./.








