Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 27/08/2008 00:54 (GMT+7)

Quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự trong luật khoa học và công nghệ

Vấn đề XHDS trong tiến trình cải cách kinh tế - xã hội

Đặc trưng cơ bản của công cuộc cải cách kinh tế - xã hội của đất nước ta là chuyển từ nền kinh tế do Nhà nước độc quyền điều hành và thực hiện (gọi là nền kinh tế chỉ huy) sang nền kinh tế bao gồm nhiều thành phần trong xã hội, trong đó, Nhà nước chỉ còn giữ chức năng điều tiết vĩ mô.

Khi Nhà nước là chủ thể duy nhất làm kinh tế, bên cạnh đó chỉ còn lại một thành phần “á” Nhà nước là thành phần kinh tế hợp tác xã (cũng hoạt động trong khuôn khổ chỉ huy trực tiếp của Nhà nước) thì không tồn tại XHDS (Civil Society). Nhiều người trong chúng ta đã chứng kiến công cuộc cải cách kinh tế - xã hội ở nước ta bắt đầu từ sự “ phá rào” của dân chúng. “ Phá rào” là thuật ngữ được sử dụng lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, hàm nghĩa việc dân chúng trong cả hai khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã đã phá vỡ những khung khổ trói buộc của thiết chế chỉ huy tập trung quan liêu, tạo ra một “sân chơi” riêng theo kiểu của dân chúng, bên ngoài quỹ đạo của khu vực chính thống được điều hành bởi Nhà nước. Khu vực nằm ngoài sự điều hành trực tiếp của Nhà nước chính là mầm mống của XHDS. Theo tiến trình cải cách, Nhà nước từ chỗ cấm đoán khu vực XHDS đến chỗ thừa nhận, rồi hợp thức hóa, làm cho khu vực quốc doanh và khu vực hợp tác xã “á” Nhà nước trước đây bị thu hẹp lại, khu vực kinh tế của XHDS ngày càng được mở rộng. Khi đó, Nhà nước không còn đóng vai người chỉ huy phát ra những mệnh lệnh điều hành mọi hoạt động xã hội, mà thực sự trở thành một chủ thể quyền lực đưa ra những văn bản quy phạm pháp luật, chính sách vĩ mô để điều tiết các hoạt động xã hội.

Hệ thống KH&CN không nằm ngoài quỹ đạo chung của tiến trình cải cách, trong đó một đạo luật về KH&CN phải thực sự trở thành một đạo luật có giá trị điều chỉnh các hoạt động của toàn xã hội. Luật KH&CN đã được công bố gần mười năm trước đây, theo thiển nghĩ của chúng tôi, chủ yếu mang sắc thái của một “đạo luật quốc doanh”, chưa phải là một đạo luật cho toàn xã hội. Gần mười năm qua, cơ cấu xã hội Việt Nam đã trải qua những biến đổi hết sức lớn lao, trong đó khu vực XHDS đang ngày càng mở rộng, mặc dù còn nhiều yếu tố làm chúng ta chưa thực sự thỏa mãn (có đồng nghiệp nói, XHDS hiện nay còn mang dáng dấp những “đại lý” của các tổ chức nhà nước). Một trong những phương hướng điều chỉnh của Luật là cần phải vươn tầm tay tới những biến đổi lớn lao đó.

Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới những vấn đề của một đạo luật về KH&CN khi khu vực XHDS ngày càng phát triển.

Những mốc triết lý về cải cách chính sách KH&CN ở nước ta

Trong quá trình cải cách kinh tế - xã hội, mà đặc trưng cơ bản là chuyển từ nền kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường, hệ thống KH&CN trong mười năm đầu cải cách, tính từ 1981 đến 1992, đã trải qua những bước tiến rất quan trọng về mặt triết lý, từ triết lý của hoạt động KH&CN “quốc doanh” chỉ huy tập trung quan liêu sang triết lý của loại hoạt động KH&CN trong bối cảnh xuất hiện khu vực XHDS:

Giai đoạn I,là giai đoạn cải cách với triết lý “ phi tập trung hóa ” hoạt động KH&CN, được đánh dấu bởi Quyết định 175/CP năm 1981 của Chính phủ về việc cho phép các cơ quan KH&CN được ký hợp đồng với nhau và với sản xuất. Đây là một mốc vô cùng quan trọng. Tuy bản chất của thể chế kinh tế vẫn là Nhà nước chỉ huy, nhưng nó đã mở đầu cho sự chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn “chỉ huy tập trung quan liêu”, mà thừa nhận vai trò sáng tạo của cơ sở: Xí nghiệp có quyền sản xuất theo nhu cầu thị trường; có quyền tìm đến cơ quan R&D để ký hợp đồng áp dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Đó là điều trước kia bị cấm đoán và được đặt trong khung khổ của chế tài hình sự.

Giai đoạn II,là giai đoạn cải cách với triết lý “ phi hàn lâm hóa ” hoạt động KH&CN, được đánh dấu bởi Nghị quyết 51/HĐBT năm 1983, trong đó cho phép viện nghiên cứu được thực hiện các hoạt động sản xuất để thương phẩm hóa những kết quả nghiên cứu không có điều kiện (hoặc không bõ) chuyển giao vào sản xuất công nghiệp.

Giai đoạn III,là giai đoạn cải cách với triết lý “ phi hành chính hóa ” hoạt động KH&CN, được đánh dấu bởi Quyết định 134/HĐBT năm 1987 của Hội đồng Bộ trưởng, trong đó thừa nhận sự tồn tại hình thức “tập thể tự nguyện” của các nhà khoa học khi họ tham gia các hợp đồng, vượt ra ngoài khuôn khổ các tổ chức được thành lập theo quyết định của các cấp hành chính. Điều này hoàn toàn khác với những gì được quy định trong Quyết định 175/CP, chỉ cho phép các tổ chức R&D (của Nhà nước) được ký kết hợp đồng.

Quyết định 134/HĐBT còn là mốc đánh dấu sự khởi đầu cho triết lý “ thị trường hóa kết quả nghiên cứu ” (chứ không phải “thị trường hóa khoa học”, như một số người vẫn hiểu lầm), bằng cách cho phép thỏa thuận giá giữa các bên hợp đồng, hạn chế dần kiểu quyết toán đơn điệu, chỉ theo nguyên tắc “thực thanh, thực chi”.

Giai đoạn IV,là giai đoạn cải cách với triết lý “ phi nhà nước hóa ” hoạt động KH&CN, được đánh dấu bởi Nghị định 35/HĐBT năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng, trong đó khẳng định, mọi tổ chức xã hội và mọi công dân đều được quyềntiến hành các hoạt động KH&CN. Những điều khoản tiếp sau đó quy định rằng, mọi tổ chức KH&CN khi thành lập chỉ theo quyết định của chủ thể “sinh ra nó”, chỉ phải đăng ký tại một (01) cơ quan có thẩm quyền, ngoài ra không cần phải xin phép ai cả.

Cần nói rằng, đây là lần đầu tiên, một văn bản chính sách của Nhà nước tuyên bố thừa nhận mọi công dân có quyền, chứ không phải Nhà nước cho phépnhư thường được viết trong các văn bản trước đây. Về một phương diện nào đó, cũng có thể nói, đây là một tuyên ngôn dân chủ trong hoạt động KH&CN. Nó hoàn toàn phù hợp với các quy định về quyền tiến hành các hoạt động sáng tạo và quyền thành lập các tổ chức được viết trong Hiến pháp. Đây chính là trang sử mở đầu cho sự tuyên bố minh bạch của Nhà nước về quyền của XHDS trong hoạt động KH&CN, là một bước tiến rất dài trên con đường dân chủ hóa khoa học.

Công bằng mà nói, những gì diễn ra sau năm 1992, thực chất vẫn tiếp tục phát triển trên cơ sở những triết lý đã được nêu trên: (1) Phi tập trung hóa quản lý KH&CN, (2) Phi hàn lâm hóa hoạt động nghiên cứu, (3) Thị trường hóakết quả R&D, (4) Phi hành chính hóa hoạt động KH&CN(5) Phi nhà nước hóa hoạt động KH&CN, trong đó có những bước tiến và có những bước chững lại, chưa xuất hiện một triết lý nào mang tính “phá khung”, đáp ứng nhu cầu phát triển KH&CN phù hợp những tư tưởng phát triển KH&CN của thế giới đương đại nói chung và xã hội đương đại Việt Nam nói riêng.

Gần 20 năm tính từ sau năm 1992 đến nay, nếu như các chuyên gia phân tích chính sách KH&CN được tập hợp để tổng kết công cuộc cải cách trên tầm triết lý , từ đó đề xuất phương án hoạch định những bước tiến liên tục về triết lý cải cách, thì sẽ đạt được những thành tích vượt trội hơn nữa. Đâu đó, một số cơ quan hữu quan đã đưa ra những sáng kiến, nhưng không tạo ra những mạch phát triển về triết lý. Một vài chính sách không đi vào được cuộc sống chắc chắn có phần trách nhiệm của cơ sở, nhưng một phần quan trọng là do chính bản thân chính sách có những vấn đề chưa thật sự phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.

Xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước và XHDS trong Luật KH&CN

Từ thực tế cải cách kinh tế - xã hội, chúng ta có thể chỉ ra hai xu hướng luôn đi sóng đôi với nhau:

Thứ nhất, XHDS ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động KH&CN nói riêng.

Từ quá trình phát triển KH&CN sau những mốc cải cách, chúng ta có thể ghi nhận như sau:

- Sau Quyết định 175/CP năm 1981, đã diễn ra sự bùng phát thứ nhất của việc ký kết hợp đồng giữa cơ quan R&D với sản xuất, bước đầu tháo gỡ cơ quan R&D khỏi sự trói buộc của cơ chế chỉ huy tập trung quan liêu.

- Sau Nghị quyết định 51/HĐBT năm 1983, đã diễn ra sự bùng phát thứ hai, là sự bùng phát hoạt động sản xuất của các viện dựa trên kết quả của hoạt động KH&CN vượt khỏi khung khổ các ràng buộc hàn lâm.

- Sau Quyết định 134/HĐBT năm 1987, đã diễn ra sự bùng phát thứ ba, là sự liên kết các tập thể KH&CN vượt khỏi khung khổ các ràng buộc hành chính, đồng thời là quá trình thị trường hóa kết quả nghiên cứu.

- Sau Nghị định 35/HĐBT năm 1992, đã diễn ra sự bùng phát thứ tư, là sự thành lập các tổ chức KH&CN trong khu vực XHDS.

Cần công bằng nhận xét rằng, bốn cuộc bùng phát trên đã là bốn mốc ngoạn mục của quá trình cải cách chính sách KH&CN trên đường tiến dần tới XHDS. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu, chúng ta thấy các tổ chức KH&CN thuộc XHDS vẫn phải tìm sự “bảo trợ” của một yếu tố trong khuôn khổ quyền lực nhà nước.

Những nghiên cứu triết học về khoa học (Phisology of Science), cũng như xã hội học chính trị về khoa học (Political Sociology of Science) cho thấy, khoa học luôn có quan hệ gay cấn với tất cả các hình thái ý thức xã hội, như quan hệ với đạo đức, pháp luật, tôn giáo, và nhất là với ý thức hệ chính trị. Từ những bi kịch trong lịch sử khoa học có thể khẳng định, muốn khoa học phát triển, không gì có vai trò quan trọng hơn một đạo luật, trong đó Nhà nước cam kết đảm bảo cho khoa học được tự do tư tưởng trong khuôn khổ XHDS, được phát triển không bị trói buộc trong khuôn khổ các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Trong quá trình nghiên cứu để điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện Luật KH&CN, đây là những nội dung mang tính nan đề, nhưng không thể né tránh. Vấn đề đặt ra là, phải xác lập một triết lý mới cho sự phát triển KH&CN nhằm mục tiêu chấn hưng đất nước.

Thứ hai, Nhà nước ngày càng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đảm bảo cho KH&CN phát triển. Hiện nay, không một nhà nước nào không quan tâm tới hoạt động KH&CN. Lý do có nhiều, nhưng có một lý do hoàn toàn khách quan là hoạt động KH&CN ngày nay đã vượt ra ngoài bốn bức tường những labô tư nhân của các nhà bác học thiên tài, được xã hội hóa, trở thành một hoạt động xã hội, trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Từ đây, các nhà nghiên cứu được tập hợp thành một cộng đồng xã hội ngày càng rộng lớn, vượt khỏi khuôn khổ quốc gia, trở thành một cộng đồng quốc tế. Đây chính là lý do đòi hỏi các nhà nước phải thực hành những biện pháp điều tiết vĩ mô quan hệ trong nội bộ cộng đồng KH&CN và quan hệ giữa cộng đồng này với các cộng đồng khác trong xã hội và trên thế giới.

Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, 8 - 2008

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.