Phòng thí nghiệm trọng điểm "mất điểm"
Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ enzym-protein của Đại học Khoa học tự nhiên được bố trí riêng tại một tòa nhà, điện sáng choang, với nhiều trang thiết bị hiện đại.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Quýnh cho biết, nhiều thiết bị nghiên cứu về gene chỉ có duy nhất ở phòng thí nghiệm trọng điểm này, riêng máy phân tích gene tự động có giá tới 250.000 USD. Toàn bộ trang thiết bị của phòng thí nghiệm trọng điểm có giá gần 4 triệu USD.
Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ hàn và xử lý bề mặt của Viện Nghiên cứu cơ khí cũng được Nhà nước đầu từ trên 46 tỷ đồng với nhiều trang thiết bị hiện đại, tiến tiến trong lĩnh vực cơ khí.
Tiến sĩ Nguyễn Tường Vân, Viện trưởng Viện nghiên cứu thiết kế chế tạo máy nông nghiệp cho biết: với nguồn vốn được đầu tư, trang thiết bị của các phòng thí nghiệm trọng điểm này không thua kém gì phòng thí nghiệm các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia.
16 phòng thí nghiệm khác cũng có các trang thiết bị đầu tư rất “hoành tráng”, được nhiều nhà khoa học đánh giá có thể sánh ngang với các phòng thí nghiệm lớn trong khu vực.
Song, dường các trang thiết bị kỹ thuật ở các phòng thí nghiệm trọng điểm này chưa được sử dụng là bao. Đơn cử tại phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ enzym-protein, mặc dù lãnh đạo đơn vị quản lý PTN luôn cho rằng tất cả thiết bị đều được khai thác, phục vụ tốt công tác nghiên cứu khoa học, nhưng kết quả đem lại thật đáng buồn: số nhiệm vụ chuyển giao công nghệ: không; số tiền chuyển giao công nghệ: không; tình hình đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích cũng không.
Kết quả của phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ hàn và xử lý bề mặt không khả quan hơn bao nhiêu. Mặc dù được đầu tư từ năm 2001 với tổng vốn trên 46 tỷ đồng, nhưng đến nay đơn vị này chỉ có 12 công trình nghiên cứu được công bố trong nước, 2 công trình được công bố ở nước ngoài.
Vẫn đổ tại khách quan
Lý giải về tình trạng nghèo nàn về kết quả nghiên cứu, một lãnh đạo phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ hàn và xử lý bề mặt cho rằng, đó là do chưa thu hút, tập hợp được cán bộ kỹ thuật có chuyên môn sâu. Mặc dù Viện Nghiên cứu cơ khí đã ưu tiên phân bổ mức chi thường xuyên cho phognf thí nghiệm trọng điểm nhưng vẫn chưa đáp ứng và hấp dẫn các sinh viên, cán bộ chuyên môn giỏi từ các đơn vị khác đến thực hành.
Vị lãnh đạo này thừa nhận, quy chế hoạt động đối với cộng tác viên nghiên cứu phòng thí nghiệm trọng điểm chưa thống nhất nên trang thiết bị được đầu tư chủ yếu dùng cho mục tiêu đào tạo.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Quýnh viện dẫn một loạt lý do để lý giải về kết quả hoạt động nghèo nàn của phòng thí nghiệm trọng điểm như: chưa có Quy chế hoạt động; chưa có hội đồng chỉ đạo; chưa có kinh phí thường xuyên; chưa được quan tâm trong việc xét duyệt các đề tài nghiên cứu ở phòng thí nghiệm trọng điểm.
Để khắc phục tình trạng này, ông Quýnh đề nghị Nhà nước có chương trình hỗ trợ kinh phí để mời chuyên gia nước ngoài sang đào tạo, giảng dạy, trao đổi về các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của phòng thí nghiệm trọng điểm và quan tâm xét chọn đề tài hay chương trình nghiên cứu của Nhà nước.
Tuy nhiên, theo tiến sĩ Nguyễn Tường Vân, kể cả khi Bộ KH&CN đã ban hành Quy chế hoạt động phòng thí nghiệm trọng điểm (ngày 8/7/2008) thì các phòng thí nghiệm trọng điểm phải hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập. “Ưu tiên xét duyệt các đề tài nghiên cứu cho phòng là không hợp lý. Bởi các phòng thí nghiệm trọng điểm được đầu tư mấy chục tỷ đồng. Vậy tại sao họ không tự đấu thầu đề tài nghiên cứu, mà phải trông chờ nhà nước ưu tiên?”, tiến sĩ Nguyễn Tường Vân nói.
Khi trao đổi về hiệu quả nghiên cứu của các phòng thí nghiệm trọng điểm, một lãnh đạo Vụ Kế hoạch - Tài chính, Bộ KH&CN ví von: “Đầu tư cho khoa học không thể như nuôi con gà để nó cho kết quả ngay.” Có lẽ với tư duy như vậy, thì các phòng thí nghiệm trọng điểm “triệu đô” chưa phát huy hiệu quả là điều dễ hiểu.
Theo thông tin từ Bộ KH&CN Kết quả đạt được từ 17 phòng thí nghiệm trọng điểm đặt tại các trường Đại học và Viện nghiên cứu thuộc một số bộ trong thời gian qua là góp phần đào tạo được 56 tiến sĩ và 58 thạc sĩ và hoàn thành 640 bài báo, công trình được đăng trên các tạp chí, trong đó có 30 công trình đăng tạp chí nước ngoài, 22 công trình có kết quả đăng ký để được cấp bằng sáng chế, giải pháp hữu ích… Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, kết quả này là quá khiêm tốn so với số tiền đầu tư. |








